Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc chủ trì Hội nghị phát triển Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ
Ngày 25-6-2019, Hội nghị phát triển Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đã diễn ra tại Hưng Yên dưới sự chủ trì của Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. Cùng dự có các Ủy viên Bộ Chính trị: Phó Thủ tướng thường trực Trương Hòa Bình; Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ; Bí thư Thành ủy Hà Nội Hoàng Trung Hải. Tới dự còn có Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, lãnh đạo nhiều ban, bộ, ngành Trung ương và các tỉnh trong Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có diện tích tự nhiên gần 16.000 km2 (chiếm 4,7% diện tích cả nước); quy mô dân số hơn 16 triệu người (chiếm 17% số dân cả nước). Đây là vùng có hạ tầng giao thông hiện đại và đồng bộ, thúc đẩy liên kết các địa phương trong vùng với các tuyến giao thông huyết mạch như: Cao tốc Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Cầu Giẽ - Ninh Bình, Hà Nội - Thái Nguyên, Hà Nội - Lào Cai, Hạ Long - Hải Phòng; đường hàng không trong nước và quốc tế như các sân bay: Nội Bài, Cát Bi, Vân Đồn; các cảng biển quan trọng: Cảng quốc tế Lạch Huyện, cảng Cái Lân.
Theo Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng, kinh tế Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ tăng trưởng nhanh, chiếm tỷ trọng cao trong 4 vùng kinh tế trọng điểm cả nước. Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2016 - 2018 đạt hơn 9%. Tổng GRDP của vùng đến năm 2018 chiếm tỉ trọng khoảng 31,73% GRDP của cả nước và chiếm 35,52% GRDP của 4 vùng kinh tế trọng điểm, đứng thứ hai sau Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam; thu ngân sách chiếm trên 31%, xuất khẩu hằng năm chiếm trên 30%. Trong đó, Hà Nội dẫn đầu toàn vùng, đóng góp 16,96% GRDP cả nước.
Một số địa phương có tỷ trọng khu vực dịch vụ lớn trong GRDP như Hà Nội chiếm 64%, cao nhất cả nước; Hải Phòng trên 44%. Đến năm 2018, tỷ trọng nông nghiệp chỉ chiếm 3,7% trong cơ cấu kinh tế vùng. Ngành công nghiệp - xây dựng tiếp tục là trụ cột tăng trưởng của vùng và tập trung đều vào tất cả các địa phương, thu hút được nhiều dự án đầu tư quy mô lớn, quan trọng tại một số tỉnh, thành phố như Bắc Ninh, Hà Nội, Hải Phòng..., trong đó chủ yếu là các ngành công nghiệp mũi nhọn như điện, điện tử, lắp ráp ô tô, đóng tàu, dệt may, công nghiệp phụ trợ.
Tổng vốn đầu tư phát triển của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ giai đoạn 2016 - 2018 đạt gần 1.600 nghìn tỷ đồng, chiếm 29,76% vốn đầu tư cả nước, tốc độ tăng bình quân 21,8%/năm, cao hơn mức bình quân trong giai đoạn này của các vùng kinh tế trọng điểm và cả nước (khoảng 11,5%). Các lĩnh vực y tế, giáo dục, bảo vệ môi trường và các vấn đề xã hội tiếp tục được cải thiện và chú trọng. Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất cả nước; tỷ lệ hộ có nguồn nước hợp vệ sinh cao nhất cả nước, đạt 99,7%, vượt mục tiêu đề ra.
Lãnh đạo các địa phương tập trung kiến nghị về liên kết vùng. Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội Nguyễn Đức Chung đề xuất 6 giải pháp trọng tâm để Bắc Bộ trở thành vùng kinh tế dẫn đầu, tiên phong với đột phá chiến lược. Trong đó, cần đặc biệt ưu tiên phát triển hiện đại hóa mạng lưới giao thông vận tải, khu công nghiệp, cung cấp nước sạch, xử lý chất thải, bảo vệ môi trường và nhà ở tại từng địa phương.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Hưng Yên Nguyễn Văn Phóng đề xuất Trung ương hỗ trợ, tạo điều kiện cho Hà Nội, Hưng Yên triển khai dự án xây dựng đường vành đai 3,5 và cầu vượt Ngọc Hồi. Cho phép thi công giai đoạn 2 dự án đường nối cao tốc Hà Nội - Hải Phòng với cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình từ nguồn vốn dư của dự án cầu Hưng Hà, do đường mới thông xe có 6 tháng, nhưng mật độ xe đã vượt thiết kế 5 lần.
Lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh đề nghị đẩy nhanh tiến độ xây dựng hoàn thành tuyến đường sắt Hà Nội - Cái Lân để đưa vào khai thác đồng bộ, phát huy hiệu quả đầu tư, bổ sung đường sắt tốc độ cao Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh.
Cũng tại hội nghị, ý kiến các thành viên Chính phủ, các địa phương đã thảo luận, đánh giá về hàng loạt vấn đề lớn như tình hình kinh tế - xã hội của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và các tỉnh, thành phố trong vùng; thực trạng và giải pháp chiến lược phát triển thu hút đầu tư; các vấn đề về môi trường đầu tư, kinh doanh và hạ tầng đô thị, giao thông, phát triển logistics, nguồn nhân lực chất lượng cao, thúc đẩy khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát triển dịch vụ du lịch... qua đó khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển vùng theo hướng bền vững.
Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nằm trong tam giác phát triển Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, là vùng chiến lược đặc biệt quan trọng về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng - an ninh, là vùng kinh tế lớn thứ 2 cả nước. Đây là vùng duy nhất có tất cả địa phương đều điều tiết về ngân sách trung ương. Vùng có gần 80% số xã đạt chuẩn nông thôn mới và tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất cả nước, chỉ còn 2% theo chuẩn đa chiều hiện nay.
Thủ tướng nhận định, Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ có nhiều thuận lợi hơn hẳn so với vùng khác, nhất là kết cấu hạ tầng và nguồn nhân lực; nhân tố "thiên thời - địa lợi - nhân hòa" rất rõ ràng; các tỉnh, thành phố trong vùng có trình độ phát triển cao so với trung bình cả nước. Thủ tướng mong muốn, Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cần nhận thức được vai trò, vị trí này để phấn đấu đạt được kết quả rõ nét hơn nữa với quy mô cao hơn, đóng góp vào sự phát triển chung của cả nước.
Thủ tướng đề nghị các địa phương thực hiện một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để phát triển cả vùng và từng địa phương mạnh mẽ hơn; đồng thời đổi mới cơ chế, chính sách về đầu tư, tài chính, đất đai, nhân lực, phân cấp, giao quyền để tạo thuận lợi cho các địa phương, phát triển sản phẩm giá trị gia tăng cao. Các địa phương cần quan tâm đổi mới thể chế, cơ chế điều phối vùng, đây là vấn đề quan trọng nhưng chưa thực hiện hiệu quả. "Chúng ta không có chính quyền vùng, cấp ủy liên vùng nhưng cần có cơ chế điều phối để các địa phương trong vùng đều phát triển", Thủ tướng nhấn mạnh.
Thủ tướng cũng đã chỉ ra những hạn chế yếu kém với tinh thần "nói bất cập, tồn tại nhiều hơn để thấy mình đang ở đâu, để sửa chữa". Thủ tướng cho rằng, khu vực dịch vụ hiện đang là lợi thế nhưng tốc độ tăng trưởng chưa cao, chưa bền vững; tỉ trọng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế của vùng có xu hướng giảm (từ gần 51% năm 2016 xuống còn khoảng 47% năm 2018). Sản xuất nông nghiệp nhìn chung phổ biến còn manh mún, nhỏ lẻ. Vấn đề liên doanh, liên kết trong sản xuất, kinh doanh còn yếu; trình độ canh tác, công nghệ sơ chế, chế biến còn lạc hậu… Tình trạng ô nhiễm môi trường ở đô thị, nông thôn, lưu vực sông, làng nghề, cụm công nghiệp… rất phức tạp. Việc di dân vào Hà Nội đã gây quá tải kết cấu hạ tầng.
Khu vực công nghiệp chủ yếu phát triển chiều rộng, đóng góp của khoa học - kỹ thuật, năng suất các yếu tố tổng hợp còn hạn chế. Một số địa phương vẫn tập trung vào khai thác tài nguyên, gia công. Các ngành công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, logistics, dịch vụ cao cấp phát triển chưa tương xứng. Việc gắn kết giữa các dự án FDI và doanh nghiệp trong nước tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu còn hạn chế, chưa có tính chất lan tỏa. Phần lớn các dự án FDI thường tập trung vào các lĩnh vực, các ngành có nhiều ưu đãi đầu tư, nhân công giá rẻ. Các dự án công nghiệp tập trung chủ yếu tại Hà Nội, Hải Phòng, Bắc Ninh (Samsung, LG, Microsoft, Canon...) và mới dừng lại ở gia công lắp ráp, giá trị gia tăng thấp.
Về định hướng phát triển thời gian tới, Thủ tướng nhấn mạnh, phải tiếp tục giữ vững và phát huy hơn nữa vai trò của vùng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học - kỹ thuật của cả nước; phấn đấu cùng với Vùng Kinh tế trọng điểm Nam Bộ là một trong hai đầu tàu, trung tâm kinh tế lớn nhất và phát triển năng động của cả nước.
Sự định hướng phát triển và xác định ngành nghề trụ cột ưu tiên, quy hoạch phân bổ không gian phải phù hợp hơn; danh mục dự án hạ tầng liên kết vùng, cả nội vùng và kết cấu ngoại vùng cần làm rõ hơn; cần có thể chế liên kết vùng, cơ chế phối hợp vùng hiệu quả hơn; đẩy mạnh liên kết trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ. Mục tiêu phát triển của vùng phải là đi đầu về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, đi đầu trong 3 đột phá chiến lược và đặc biệt là cơ cấu lại nền kinh tế trên tinh thần phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường.
Vùng cần quan tâm phát triển đô thị như một động lực tăng trưởng, đồng thời tiếp tục xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh thực hiện các giải pháp cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, chống tham nhũng, lãng phí; phát triển kinh tế song song với giải quyết các vấn đề xã hội, an toàn cho người dân. Về thể chế điều hành và mô hình vùng, Thủ tướng cho biết, sẽ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư làm việc với các cơ quan liên quan, đề xuất mô hình cụ thể, báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ./.
Tập trung giải quyết những bức xúc của cử tri về đền bù đất đai và tình hình tội phạm  (25/06/2019)
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những vấn đề pháp lý đặt ra cho việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam  (24/06/2019)
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại vào công tác đối ngoại quân sự, quốc phòng của Việt Nam  (24/06/2019)
Khai mạc Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 34  (23/06/2019)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam