TCCSĐT - Ngày 23-10-2010, Hội nghị Bộ trưởng Tài chính với sự tham gia của lãnh đạo một số ngân hàng trung ương các nước thuộc Nhóm G20, bao gồm các nước phát triển cao và các nước có nền kinh tế mới nổi, đã bế mạc tại Gôi-gu (Hàn Quốc). Sau 2 ngày thảo luận sôi nổi, Hội nghị đã đưa ra một quyết định quan trọng trên con đường cải tổ Quỹ tiền tệ quốc tế, đánh dấu bước tiến đáng kể trong việc hướng tới trật tự kinh tế thế giới mới.

Chủ đề "nóng" tại Hội nghị

Sau khi nghe báo cáo về tình hình kinh tế thế giới của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng Thế giới (WB), các bộ trưởng Tài chính các nước G20 tập trung thảo luận vấn đề tranh chấp tiền tệ theo chủ đề “Xu hướng và triển vọng của kinh tế thế giới”. Báo cáo của IMF nhấn mạnh, các nước châu Á cần nâng giá trị đồng tiền nội tệ của họ nhằm đối phó với khả năng thanh khoản tăng lên và hỗ trợ động thái gây áp lực của các nước phương Tây, giống như biện pháp mà Mỹ vừa làm đối với Trung Quốc.

Đại diện của Mỹ đưa ra hai đề nghị. Một là, giới hạn mức thâm hụt cán cân vãng lai ở mức tối đa là 4% GDP, do cán cân này của Mỹ bị thâm hụt triền miên. Hai là, Mỹ kêu gọi các nước có nền kinh tế đang trỗi dậy cải tổ chính sách hối đoái để tiếp sức cho đà phục hồi kinh tế toàn cầu. Đề nghị này chủ yếu nhằm vào Trung Quốc, vì Oa-sinh-tơn luôn tố cáo Bắc Kinh ghìm giá đồng nhân dân tệ để hỗ trợ khu vực xuất khẩu. Không chỉ Mỹ, mà các nước châu Âu cũng cho rằng, các quốc gia có nền kinh tế mới nổi phải nâng giá đơn vị tiền tệ để phản ánh trung thực sức mạnh kinh tế của họ. Trong khi Liên minh châu Âu (EU) muốn đưa vấn đề mất cân bằng thương mại, tài khoản tiết kiệm của ngân hàng và chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch vào chương trình nghị sự của Hội nghị thượng đỉnh G20 sắp tới tại Xơ-un (Hàn Quốc), thì đại diện của Bộ Tài chính Mỹ lại muốn hội nghị sắp tới này cần hành động nhằm buộc các nước chấm dứt các biện pháp hạ giá đồng tiền của họ thấp hơn giá thị trường để tăng tính cạnh tranh về giá cả.

Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) cũng đã trình bày báo cáo, nhận định, hiện nay đà phục hồi của kinh tế toàn cầu đang bị chậm lại và do đó, các nước cần điều chỉnh tỷ giá hối đoái để đối phó với sự mất cân bằng của nền kinh tế thế giới. Nhiều ý kiến tham luận cảnh báo về mối đe dọa các bên sử dụng đơn vị tiền tệ để biện minh cho chính sách bảo hộ và do đó, các nước cần hợp lực nghiên cứu nhằm đưa ra các biện pháp cải cách hệ thống tài chính toàn cầu.

Đạt được thỏa thuận chung

Theo Tuyên bố chung của Hội nghị công bố ngày 23-10, sau hai ngày thảo luận, các bên tham gia đã đạt được đồng thuận về việc cải tổ IMF và tiến bộ trong cuộc thảo luận về chính sách tiền tệ. Trong lĩnh vực ngân hàng, Bộ trưởng Tài chính các nước G20 đã đạt được thỏa thuận nhằm siết chặt quản lý những ngân hàng và thể chế tài chính lớn bị quy trách nhiệm là châm ngòi cho cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay. Trong vấn đề tiền tệ, các bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương G20 nhất trí về việc tránh phá giá đồng tiền nhằm mục đích cạnh tranh trong bối cảnh tiềm ẩn nguy cơ khiến đồng tiền suy yếu, đồng thời sẽ tiếp tục theo đuổi các chính sách nhằm hạn chế sự mất cân bằng toàn cầu đe dọa quá trình phục hồi kinh tế. Một trong những nội dung chủ yếu của Tuyên bố chung là hướng tới các hệ thống tỷ giá tiền tệ được xác định dựa trên cơ sở thị trường nhiều hơn và kiềm chế sự phá giá đồng tiền nhằm mục đích cạnh tranh. Tuyên bố chung cũng khẳng định, quá trình phục hồi kinh tế toàn cầu vẫn chưa bền vững, không đồng đều ở các khu vực và các quốc gia, còn tiềm ẩn nhiều rủi ro; phản đối mọi hình thức của chủ nghĩa bảo hộ và sẽ nỗ lực để phá bỏ các hàng rào thương mại. Các thành viên sẽ tập trung xây dựng kế hoạch hành động toàn diện về kinh tế toàn cầu để trình Hội nghị thượng đỉnh G20 sẽ nhóm họp tại Xơ-un vào tháng 11-2010.

Cải tổ mạnh mẽ IMF

Phát biểu trước báo giới, ông Đô-mi-níc Xtrao-út-can (Dominique Strauss-Kahn), Giám đốc điều hành IMF cho biết, tại hội nghị lần này, G20 đã đạt được một thỏa thuận quan trọng, có ý nghĩa lịch sử về việc cải tổ IMF, theo đó, các nước phát triển ở châu Âu đã nhất trí trao lại hai ghế trong Ban Giám đốc điều hành IMF cho các nước đang phát triển. Ngoài ra, các nước BRIC, gồm Bra-xin, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc đã có tên trong danh sách 10 cổ đông hàng đầu của IMF. Đây được coi là đợt cải tổ lớn nhất từ trước tới nay trong cơ chế điều hành của IMF, nhằm hướng tới trật tự kinh tế thế giới mới. Trước đây, tại Hội nghị cấp cao G20 nhóm họp vào ngày 15-11-2008 ở Oa-sinh-tơn, sau khi bùng phát cuộc khủng hoảng tài chính từ Mỹ, đã từng nhất trí chủ trương cải tổ các tổ chức tài chính quốc tế, trước hết là IMF và WB, vì kể từ khi thành lập, hai tổ chức này đã bị Oa-sinh-tơn thao túng và trở thành công cụ chính trị của Mỹ nhằm khống chế, áp đặt chính sách đối với các nước. Nhận định của ông Đô-mi-níc Xtrao-út-can về ý nghĩa quan trọng của việc cải tổ IMF đã được làm rõ qua lịch sử hình thành và phát triển của tổ chức này.

IMF là một tổ chức chuyên ngành của Liên hợp quốc, được thành lập ngày 22-7-1944 tại Hội nghị Brét-tơn-út và chính thức đi vào hoạt động ngày 27-3-1957. Hiện nay, tham gia IMF có 186 nước, trong đó có 2.500 nhân viên làm việc đến từ 133 nước. Chức năng chủ yếu của IMF là cho các nước vay ngắn hạn và trung hạn một khi các nước đó bị thâm hụt cán cân thanh toán, nhằm góp phần tạo ra sự hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ. Quyết định cho vay của IMF thường đi kèm một số chỉ định và điều kiện nhằm cải thiện tình hình khó khăn cho nước đi vay. Tuy nhiên, chính sách của IMF đối với các nước đang phát triển thường bị phê phán vì buộc các nước đó phải thực hiện một số chỉ định và điều kiện không nhằm mục đích tạo ra tính độc lập, sự ổn định và nhằm phát triển nền kinh tế quốc gia mà chỉ là bắt buộc quốc gia đi vay phải phụ thuộc vào các dòng tài chính quốc tế.

Quỹ của IMF tính tới tháng 1-2008 đã lên tới 325 tỉ USD từ đóng góp của các nước thành viên. Tiếng nói của các thành viên trong việc xây dựng các quyết định của IMF phụ thuộc vào phần đóng góp của họ vào quỹ của tổ chức này. Tính đến ngày 16-6-2006, nước có tiếng nói lớn nhất trong IMF là Mỹ (17,8%). Tiếp đến là các nước Nhật Bản (6,13%), Anh (4,95%), Pháp (4,95%), A-rập Xê-út (3,22%), I-ta-li-a (4,18%), Nga (2,74%). Tổng cộng, 15 thành viên EU có 30,3% và 29 thành viên thuộc Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển chiếm 60,35% quyền bỏ phiếu trong IMF. Các nước còn lại chiếm 84% số lượng thành viên của IMF nhưng chỉ có 39,75% quyền bỏ phiếu.

Sau cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế bùng phát từ Mỹ năm 2008, trong nội bộ IMF đã từng dấy lên các cuộc tranh luận về việc phân phối lại cô-ta và số ghế trong Hội đồng điều hành IMF. Cô-ta của một nước nào đó trong IMF xác định khối lượng phần đóng góp của họ vào ngân khố của IMF, giới hạn số tiền được vay và tỷ trọng tiếng nói của họ khi đưa ra các quyết định của IMF. Việc cấp cô-ta của IMF được thực hiện theo một cơ chế rất phức tạp và thường đem lại ưu thế cho các nước phát triển cao. Theo Điều lệ của IMF, hiện nay 9 ghế trong Hội đồng điều hành của IMF thuộc về các nước Tây Âu, 5 ghế thuộc về các nước Bắc Mỹ, Nam Mỹ và châu Á.

Từ lâu, các nước đã nhận thấy cách phân bổ như vậy là không hợp lý và đã từng diễn ra các cuộc tranh luận về việc phải cải cách hệ thống quản lý IMF. Nhưng chỉ sau khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế năm 2008, đặc biệt là sau khi bùng phát cuộc khủng hoảng nợ công ở Tây Âu, quá trình cải cách mới được tiến triển trên thực tế. Trong bối cảnh các nước có nền kinh tế mới nổi đang đóng vai trò đầu tàu cho sự tăng trưởng kinh tế toàn cầu, trước hết là các nước BRIC, thì yêu cầu cải cách IMF càng trở nên bức thiết. Những nước này hiện đứng đầu thế giới về dự trữ ngoại tệ và sẽ là những quốc gia đóng góp nhiều nhất cho IMF. Trung Quốc vừa qua đã vượt Nhật Bản, trở thành quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Mỹ. Thế nhưng, Trung Quốc chỉ có cô-ta 4% trong IMF, đứng vị trí thứ 6 sau Mỹ (17%), Nhật Bản và Đức (trên 6%), Pháp và Anh (khoảng 4,5%). Nga với cô-ta 2,49%, tạm thời đứng thứ 10, Ấn Độ-2,44%, đứng thứ 11. Năm 2009, Hội nghị G20 ở Pít-xbuốc (Mỹ) đã đưa ra quyết định sắp xếp lại hệ thống cô-ta và ưu tiên cho các nền kinh tế mới nổi. Các thành viên G20 đã phải mất 8 giờ tranh luận gay gắt mới đưa ra được quyết định có ý nghĩa cực kỳ quan trọng này. Các nước BRIC yêu cầu phải giành được 7% cô-ta, nhưng cuối cùng buộc phải chấp nhận con số 5%. Ngoài ra, các nước BRIC yêu cầu cô-ta phải được chuyển tử các nước phát triển cao sang các nước đang phát triển.

Trước đây, Mỹ thường dùng quyền của họ để khống chế các quyết đinh của IMF nhằm phục vụ lợi ích chính trị của họ. Tuy nhiên, các nước BRIC không chỉ đấu tranh yêu cầu phân phối lại cô-ta của IMF mà còn nhằm điều chỉnh toàn bộ cán cân lực lượng trong IMF, theo đó, các nước phát triển chiếm 50% và 50% còn lại thuộc về các nước đang phát triển. Trong WB, tỷ lệ này đã tương đối cân xứng, trong đó 53% thuộc về các nước phát triển và 47% thuộc về các nước đang phát triển. Ông Rô-béc de-líc, Tổng Giám đốc WB, đề nghị các nước từ này không nên sử dụng khái niệm đã lạc hậu là “các nước thế giới thứ ba” trong nền kinh tế thế giới mà nên hướng tới xây dựng “trật tự thế giới kinh tế đa cực” và mô hình kinh tế bình đẳng giữa các nước, thay thế cái gọi là “sự đồng thuận Oa-sinh-tơn”.

Đa số các nhà khoa học và các chính khách phê phán IMF, do tổ chức này bị Mỹ khống chế và kiểm soát. Thậm chí, Thượng viện Mỹ có thể thông qua Đạo luật cấm IMF thực hiện một số hoạt động, như cấp tín dụng cho một số nước nào đó đi ngược lại lợi ích của Mỹ. Trong lịch sử, đã từng xảy ra nhiều sự kiện Mỹ sử dụng IMF để can thiệp thô bạo vào nền kinh tế và chính trị của nhiều nước. Đầu những năm thế kỷ XX, khi cấp phép cho Nam Tư vay, IMF bắt buộc nước này không được điều chỉnh sự chênh lệch trong phát triển kinh tế giữa các vùng miền, đã làm bùng phát chiến dịch ly khai sắc tộc và dẫn tới nội chiến, khiến 600.000 người thiệt mạng. Chính sách cho vay của IMF đối với Ru-an-đa năm 1989 đã dẫn tới sự phát triển bất bình đẳng giữa các vùng và các tầng lớp dân cư trong xã hội, do đó làm bùng nổ cuộc nội chiến đẫm máu giữa người Hu-tu và người Tút-xi, khiến hơn 1,5 triệu người thiệt mạng. Trong những năm 80, do giá dầu sụt giảm, nền kinh tế Mê-hi-cô lâm vào khủng hoảng, IMF cấp vốn cho quốc gia này nhưng ra điều kiện là nước này phải tư nhân hoá trên quy mô lớn ngành công nghiệp dầu mỏ. Điều kiện đó gây thiệt hại 45 tỉ USD và nạn thất nghiệp chiếm tới 40% dân số lao động Mê-hi-cô.

Nhưng sự kiện đáng chú nhất là Mỹ đã sử dụng IMF để thực hiện "liệu pháp sốc" về kinh tế đối với các nước đã từng là xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Nga trong những năm 90. IMF yêu cầu những quốc gia này phải tiến hành "cải cách thị trường" ngay lập tức. Đội ngũ các chuyên gia của IMF hồi đó thậm chí chưa kịp sẵn sàng giải quyết những vấn đề phức tạp trong việc chuyển hóa không gian kinh tế vốn gắn kết với nhau của 6 nước thuộc Hiệp ước Vác-xa-va gồm Bun-ga-ri, Tiệp Khắc, Cộng hòa Dân chủ Đức, Hung-ga-ri, Ba Lan và Ru-ma-ni, cũng như 15 nước cộng hòa thuộc Liên Xô trước đây. Theo đơn đặt hàng của Rốc-béc Ru-bin, Bộ trưởng Tài chính Mỹ, các chuyên gia IMF yêu cầu ngay lập tức tư nhân hóa toàn bộ các ngành công nghiệp thuộc nhà nước quản lý, thả nổi đồng rúp và đồng tiền của 6 nước khác.

Riêng đối với Nga, mục tiêu tiến công chủ yếu của Mỹ cũng như “liệu pháp sốc” của IMF thực chất là chính sách tái cơ cấu nền kinh tế, dẫn tới mở toang cánh cửa các nước thuộc Liên Xô trước đây cho các nhà đầu cơ phương Tây tiến hành chiến dịch phá hoại bằng đồng USD, bóc lột và tàn phá nước Nga tàn bạo đến mức không thương tiếc. Họ chuyển ra khỏi nước Nga gần như tất cả mọi thứ: từ dầu mỏ đến những kim loại quý như ni-ken, nhôm, bạch kim. Một nhóm các doanh nhân Nga đã chiếm đoạt những khoản tài sản khổng lồ của quốc gia do xuất khẩu tài nguyên mà có, nhanh chóng trở thành các nhà tỉ phú “sau một đêm”, sẵn sàng bảo vệ lợi ích của Mỹ theo ý định của Oa-sinh-tơn. Hậu quả tất yếu từ chính sách tàn bạo của IMF là nước Nga trong những năm 90 phải chứng kiến nạn thất nghiệp gia tăng đến chóng mặt, mức sống của người dân bị giảm đến mức tận cùng, nước Nga bị xếp vào danh sách các nước kém phát triển, nhiều người cao tuổi không có lương hưu và không được chăm sóc y tế, hàng loạt trường phổ thông bị đóng cửa, nạn nghiện rượu, ma túy và HIV/AID lan tràn trong tầng lớp thanh niên Nga.

Vì thế, dư luận chung trên thế giới đánh giá quyết định của Hội nghị Bộ trưởng Tài chính và lãnh đạo một số ngân hàng trung ương các nước thuộc Nhóm G20 tại Hàn Quốc ngày 23-10-2010 về cải cách IMF là cột mốc đánh dấu bước phát triển mới, theo hướng xây dựng hệ thống các thế chế tài chính quốc tế phù hợp với sự phát triển trật tự kinh tế thế giới mới, công bằng hơn, đáp ứng lợi ích chung của tất cả các quốc gia./.