TCCSĐT - Ngày 26-10, tại Hà Nội, Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) đã tổ chức họp báo, công bố Báo cáo “Mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam: Bằng chứng từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2009”. Báo cáo đã cho thấy sự gia tăng tỷ số giới tính khi sinh theo vùng địa lý và tỷ số này chịu ảnh hưởng bởi đặc điểm kinh tế - xã hội...

Thực trạng tỷ số giới tính khi sinh

Theo đó, số lượng bé trai sinh ra nhiều hơn bé gái không đồng đều trên các vùng lãnh thổ và giữa các nhóm dân cư. Trong khi tỷ số giới tính khi sinh (SRB) ở khu vực Tây Nguyên là 105,6 (số bé trai sinh ra so với 100 bé gái) thì ở các khu vực khác lại cao hơn, thậm chí trên 115, khiến cho tỷ số trung bình của cả nước là 110,5.

Trên phạm vi cả nước, không có sự khác biệt rõ ràng về sự chênh lệch giới tính khi sinh ở khu vực nông thôn (110,6) và thành thị (110,7). Tuy nhiên, phân tích số liệu cấp độ vùng lại cho thấy một kết quả đáng ngạc nhiên về sự mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh ở các tỉnh phía Bắc, trừ khu vực miền núi và trung du Bắc bộ, đó là tỷ số giới tính khi sinh ở nông thôn cao hơn nhiều so với khu vực thành thị. Ở khu vực phía Nam thì ngược lại, tỷ số giới tính khi sinh ở đô thị cao hơn ở nông thôn, rõ rệt nhất là tại một số điểm nóng quanh khu vực đông nam Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, tỷ số giới tính khi sinh biểu hiện rõ nét nhất là ở vùng đồng bằng Bắc bộ, với tỷ số giới tính khi sinh là 115 tại các tỉnh tạo thành một tam giác - đầu phía tây là Vĩnh Phúc, Hưng Yên ở phía nam và Quảng Ninh ở phía đông. Tỷ số cao nhất là ở vùng nông thôn thuộc các tỉnh Bắc Giang và Hưng Yên.

Ông Bruce Campbell, Trưởng Đại diện UNFPA tại Việt Nam, cho biết: “Tính phức tạp của tỷ số giới tính khi sinh không chỉ theo vùng địa lý mà còn theo các đặc điểm về kinh tế - xã hội. Hiện tượng mất cân bằng lớn ở tỷ số giới tính khi sinh có quan hệ chặt chẽ đến một loạt các yếu tố như đặc điểm của cha mẹ, dân tộc, trình độ học vấn hay công ăn việc làm và tình trạng nhà ở của hộ gia đình”.

Trên thực tế, trình độ học vấn của người mẹ có mối quan hệ tương hỗ, chặt chẽ với tỷ số giới tính khi sinh, cụ thể là ở nhóm các bà mẹ có trình độ tiểu học và thấp hơn thì tỷ số giới tính khi sinh là 107,1; ở nhóm trung học phổ thông và học nghề lên đến 111,4; ở nhóm có trình độ cao đẳng trở lên là 113,9. Mặt khác, sự mất cân bằng giới tính khi sinh cũng tùy thuộc nhiều vào vị thế kinh tế - xã hội của hộ gia đình và lần sinh con thứ mấy trong gia đình. Nghiên cứu của UNFPA cho thấy, nhóm dân số nghèo nhất thường có tỷ số giới tính khi sinh rất gần với mức bình thường là 105, trong khi với nhóm dân số giàu thì con số này lên đến 112.

Số liệu cũng cho thấy mối quan hệ tương hỗ giữa tỷ số giới tính khi sinh với thứ tự sinh con. Tiến sĩ Christophe Guilmoto, tác giả của công trình nghiên cứu chỉ ra rằng, hình thái gia tăng giới tính khi sinh ở Việt Nam không giống như những gì được quan sát ở một số quốc gia khác. Ở các quốc gia này, tỷ số giới tính khi sinh tăng đều đặn từ lần sinh thứ nhất đến lần sinh thứ ba. Còn ở Việt Nam, tỷ số giới tính khi sinh của lần sinh con đầu tiên là 110,2; đến lần sinh thứ hai, tỷ số thấp hơn một chút, ở mức 109; nhưng đến lần sinh thứ ba và sau đó lên rất cao, đến mức 115.

Tỷ số giới tính khi sinh trong tương lai

Dựa trên phân tích những số liệu từ cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, nghiên cứu của UNFPA đã cho thấy ảnh hưởng nhân khẩu học của tỷ số giới tính khi sinh trong tương lai với những kịch bản khác nhau có thể xảy ra.

Với kịch bản thứ nhất là “không can thiệp”, tỷ số giới tính khi sinh toàn quốc sẽ lên đến 115 vào năm 2015 và chắc chắn không dừng lại ở đó. Theo kịch bản này, tỷ số giới tính với nhóm dân số ở độ tuổi trưởng thành (15-49 tuổi) hiện đang cân bằng ở mức 100-100 thì đến năm 2049 sẽ là 113 nam trên 100 nữ, dẫn tới dư thừa 12% nam giới trong giai đoạn 2009-2049.

Kịch bản thứ hai giả định có các chương trình và chính sách can thiệp mạnh mẽ để giải quyết sự mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh, làm sao lùi thời điểm tỷ số giới tính khi sinh là 115 từ năm 2015 đến tận năm 2020, sau đó quay lại tỷ số cân bằng sinh học vào năm 2030. Theo kịch bản này, tỷ số giới tính với nhóm dân số ở tuổi trưởng thành vào năm 2044 sẽ là 110 nam trên 100 nữ, rồi dần dần quay lại mức cân bằng sinh học.

Kịch bản thứ ba giả định giữ được tỷ số giới tính khi sinh ở mức ổn định là 105 trong suốt giai đoạn 1999-2049. Giả định này hàm ý rằng, nhóm dân số dưới 10 tuổi của năm 2009 không bị ảnh hưởng bởi sự mất cân bằng giới tính như hiện nay. Kết quả là, đến nửa đầu thế kỷ, tỷ lệ dân số nam giới sẽ không tăng.

Tiến sĩ Christophe Guilmoto nhận định, kịch bản nào cũng cho thấy, đến năm 2050, đối tượng bị tác động nhiều nhất cũng vẫn là thanh niên. Họ sẽ chịu tác động về cơ cấu xã hội và những thay đổi về chuẩn mực văn hóa cũng như lề lối xã hội, đặc biệt là cơ hội tìm bạn đời của nam giới sẽ bị ảnh hưởng. Điều này dẫn đến khả năng phụ nữ sẽ kết hôn sớm, ảnh hưởng đến học hành. Ông Bruce Campbell giải thích thêm: Có nhiều hướng chính sách và can thiệp có thể giải quyết sự mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam. Tuy nhiên, phân tích định lượng cho thấy, ở Việt Nam, vấn đề này có tính phức tạp, nhiều phát sinh mới, và không thể giải quyết một sớm một chiều, vì vậy phải sử dụng đồng thời nhiều biện pháp can thiệp. Hơn nữa, biện pháp nào thì cũng phải mất thời gian để có thể thay đổi hành vi của mỗi cá nhân, mỗi gia đình và mỗi cộng đồng dân cư. Công việc này đòi hỏi phải có thêm số liệu thống kê và phân tích thông tin thống kê về xu hướng tỷ số giới tính khi sinh thì mới giám sát được việc triển khai các chính sách và chương trình can thiệp.

Cần lưu ý rằng, số liệu định lượng cung cấp rất nhiều chứng cứ để chúng ta xác định được vấn đề tỷ số giới tính khi sinh nằm ở đâu và mức độ của nó như thế nào, nhưng cũng không thể giúp phát hiện được đặc điểm riêng về văn hóa - xã hội của tỷ số giới tính khi sinh ở Việt Nam, một yếu tố không thể thiếu khi tính đến việc xây dựng chính sách và biện pháp can thiệp dựa trên bằng chứng. Về vấn đề này, Quỹ Dân số Liên hợp quốc đã xuất bản một tài liệu phụ trợ với tựa đề “Sự mất cân bằng tỷ lệ giới tính khi sinh ở châu Á nói chung và cụ thể tại Việt Nam: Tài liệu tham khảo định hướng cho nghiên cứu chính sách”. Mục đích của ấn phẩm này là khái quát hóa và tóm tắt các bài viết được chọn lọc từ các quốc gia châu Á và Việt Nam về xu thế thay đổi đối với tỷ số giới tính khi sinh. Cuốn tài liệu này là cơ sở cho các nghiên cứu định lượng sâu hơn về các vấn đề về tỷ số giới tính khi sinh cần được giải quyết dưới góc độ văn hóa - xã hội mà UNFPA và các đối tác khác đang triển khai./.