TCCSĐT - Sau gần 30 năm đổi mới, nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Cửu Long đã đạt được những thành tựu quan trọng, nổi bật trên các phương diện như: bộ mặt nông thôn ngày càng khởi sắc, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước được đầu tư hợp lý; hệ thống chính trị ở nông thôn không ngừng củng cố và tăng cường, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được giữ vững.


Tuy nhiên, nếu xét từng lĩnh vực cụ thể trước yêu cầu mới thì vẫn còn không ít những “rào cản” đối với sự phát triển bền vững tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở vùng này.

Hiện trạng và những vướng mắc cần sớm tháo gỡ

Đồng bằng sông Cửu Long là vùng giàu tiềm năng phát triển vào loại bậc nhất của cả nước, là vùng có vai trò quan trọng đối với Nam Bộ và cả nước trong phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư và giao thương với các nước trong khu vực và thế giới. Đây là vùng sản xuất nông nghiệp lớn nhất nước ta, hằng năm khu vực này đóng góp 27% GDP, sản xuất 50% sản lượng lúa, 90% lượng gạo xuất khẩu, 70% sản lượng trái cây, 60% kim ngạch xuất khẩu thủy, hải sản của cả nước... Đó là những điều kiện thuận lợi để đồng bằng sông Cửu Long ngày càng khẳng định vị trí số một về bảo đảm an ninh lương thực và xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp hàng hóa của cả nước.

Xác định đúng tầm quan trọng và lợi thế của đồng bằng sông Cửu Long trong tổng thể chiến lược chung của cả nước, trong suốt nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và ban hành nhiều quyết sách chiến lược đúng đắn nhằm chỉ đạo, lãnh đạo để đồng bằng sông Cửu Long đạt được những thành tựu quan trọng trong phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ngày 20-01-2003, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2001 - 2010 và sau khi tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 21, ngày 14-8-2012, Bộ Chính trị tiếp tục ban hành Kết luận số 28-KL/TW về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2011 - 2020 với mục tiêu “Xây dựng và phát triển vùng đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng trọng điểm sản xuất nông nghiệp hàng hóa theo hướng hiện đại, phát triển công nghiệp chế biến và công nghiệp phụ trợ cho nông nghiệp với tốc độ tăng trưởng cao, bền vững. Phát triển mạnh kinh tế biển. Xây dựng ngành thủy sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của quốc gia có qui mô lớn, hiện đại, sức cạnh tranh cao. Phát triển mạnh dịch vụ - du lịch thành ngành kinh tế then chốt của vùng. Chủ động hội nhập, hợp tác kinh tế với các nước, trước hết là các nước khu vực Đông Nam Á”. Trong đó, “Ưu tiên tập trung xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội để khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng. Tập trung hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phát triển công nghiệp năng lượng, sinh hóa, công nghiệp chế tác trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp. Hình thành cơ bản hệ thống đê điều, cống đập ngăn mặn, ứng phó với nước biển dâng và tác động thượng nguồn sông Mê Kông”. Đồng thời, “Phát triển các lĩnh vực văn hóa - xã hội tiến kịp mặt bằng chung của cả nước. Gắn phát triển kinh tế với phát triển xã hội, xóa đói, giảm nghèo, tạo việc làm, giải quyết an sinh xã hội, bảo vệ môi trường; hoàn thành mục tiêu xây dựng 50% xã nông thôn mới. Phát huy tiềm lực, tăng cường thực lực quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, chủ quyền quốc gia và trật tự an toàn xã hội”.

Hiện nay, việc khai thác tiềm năng, cũng như bước phát triển của đồng bằng sông Cửu Long chưa đúng với lợi thế vốn có, vì vậy đời sống người dân trong vùng, nhất là khu vực nông dân, nông thôn còn có khoảng cách khá xa so với các vùng, miền khác của cả nước. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng này đã được các nhà nghiên cứu, nhà quản lý thực tiễn phân tích, lý giải, cụ thể như:

1. Đồng bằng sông Cửu Long đang thiếu một chương trình khoa học và công nghệ tổng thể, sát thực tiễn trong chiến lược phát triển quốc gia, trong khi nơi đây đang phải đối diện với một thách thức không nhỏ đe dọa đến sự sống cũng như phát triển bền vững đó là tình trạng ô nhiễm môi trường, hiện tượng biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Đáng chú ý là kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt là hệ thống giao thông thủy, bộ và hệ thống cảng biển, cảng sông còn yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của vùng; đến nay công tác quản lý về giao thông nông thôn còn nhiều bất cập, hạn chế việc huy động các nguồn lực để đầu tư sửa chữa và phát triển.

2. Cơ cấu kinh tế của đồng bằng sông Cửu Long chuyển dịch chậm; phát triển công nghiệp, đô thị của vùng kém hiệu quả và gây khó khăn cho phát triển nông, ngư nghiệp. Chính sách đầu tư cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn đôi lúc còn dàn trải, chậm so với yêu cầu. Hình thức tổ chức nông dân để sản xuất còn bất cập; hệ thống thiết bị, máy móc phục vụ cho chế biến các sản phẩm nông nghiệp chưa đồng bộ, nên dù năng suất các loại hoạt động nông nghiệp cao mà giá trị thu lãi vẫn thấp.

3. Mô hình “liên kết 4 nhà” (Nhà nước, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp, nhà nông) thiếu bình đẳng và kém hiệu quả; nông nghiệp chưa chuyển biến về chất và lợi thế trong nông nghiệp chưa được chuyển hóa, phát huy thành động lực thúc đẩy công nghiệp, dịch vụ phát triển. Các ngành cơ khí phục vụ nông nghiệp chưa phát triển tương xứng với nhu cầu, nguồn vốn hỗ trợ nông dân mua sắm máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất rất khó tiếp cận, nên việc ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống để tăng năng suất, giảm giá thành và nâng cao sự cạnh tranh của sản phẩm có lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước chưa hợp lý. Trong khi nông nghiệp các nước trong khu vực và trên thế giới đã tiếp cận, ứng dụng và sử dụng thành thạo khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất, tạo ra nhiều sản phẩm hàng hóa có hàm lượng lao động trí tuệ cao, thì nông dân nước ta nói chung, đồng bằng sông Cửu Long nói riêng vẫn chưa đạt được ngưỡng chuẩn ở trình độ trung bình của khu vực.

4. Nguồn nhân lực ở đồng bằng sông Cửu Long trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn không chỉ yếu về chất lượng mà phần lớn chưa qua đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ nên thiếu kinh nghiệm và tác phong làm việc công nghiệp; lao động phân bố chưa hợp lý trên nhiều mặt, cả về phân bố lực lượng, ngành, nghề đào tạo, trình độ đào tạo và bố trí sử dụng. Chất lượng đội ngũ lao động còn thấp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hiệu quả thu hút đầu tư vào khu vực này.

5. Khoảng cách chênh lệch giàu, nghèo trong nông thôn và giữa nông thôn với thành thị ngày một gia tăng. Vấn đề này có nhiều nguyên nhân khác nhau như chưa thích ứng kịp với nền kinh tế thị trường, thiếu đất sản xuất, thiếu vốn, không có khả năng tiếp cận khoa học công nghệ trong quá trình sản xuất… Đây là những vấn đề làm cho đồng bằng sông Cửu Long từng bước tụt hậu trước xu thế phát triển.

Cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp

Nhằm khắc phục những khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện, đồng thời tạo động lực thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cho vùng đồng bằng sông Cửu Long, trong thời gian tới các nhà khoa học, nhà quản lý đã nêu ra những giải pháp cần thực hiện đồng bộ như sau:

Trước hết, thực hiện có hiệu quả tinh thần Kết luận số 28-KL/TW ngày 14-8-2012 của Bộ Chính trị (khóa XI) về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2011 - 2020 và Nghị quyết số 26-NQ/TW “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Theo đó, làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhằm nâng cao nhận thức và hành động của người nông dân trong việc phát huy vai trò chủ thể của mình đối với việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Thực hiện ngày càng có nền nếp và chất lượng quy chế dân chủ ở nông thôn; đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa khu dân cư.

Hai là, tập trung phát triển công nghiệp, nông nghiệp và nông thôn nhanh, bền vững bằng việc đưa nhanh các tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất nhằm cải thiện trình độ khoa học và công nghệ trong sản xuất, tạo sự chuyển biến lớn về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các các sản phẩm hàng hóa, tạo ra năng lực mới, đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hóa nông nghiệp vùng đồng bằng sông Cửu Long. Lấy ứng dụng khoa học công nghệ làm khâu đột phá, đưa nền kinh tế từng bước tăng trưởng theo chiều sâu, tạo những lợi thế trong sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm, đủ sức cho đồng bằng sông Cửu Long cạnh tranh trong xu thế hội nhập hiện nay. Phát triển mạnh các ngành công nghiệp có lợi thế, nông nghiệp và các ngành dịch vụ, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống, tăng thu nhập, đóng góp cho ngân sách nhà nước. Công nghiệp hóa gắn kết với phát triển nông nghiệp, dịch vụ và xây dựng nông thôn mới, là con đường duy nhất nhằm phát huy lợi thế của cả vùng.

Ba là, tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn; tổ chức sản xuất, duy trì và phát triển sản xuất ở các làng nghề; nâng cao chất lượng việc lập quy hoạch và thực hiện quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng thương mại; tăng cường xúc tiến và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm; tăng cường chính sách xúc tiến đầu tư, cung cấp thông tin mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm; đẩy mạnh thực hiện các gói kích cầu của Chính phủ; chính sách xúc tiến đầu tư, cung cấp thông tin mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa, sản phẩm.

Bốn là, xây dựng và thực hiện tốt chiến lược đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ để phát triển nguồn nhân lực đồng bằng sông Cửu Long một cách toàn diện. Từng bước chuẩn hóa, xã hội hóa hệ thống trường, lớp, đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, phương tiện giảng dạy và học tập cho các trường đặc biệt là ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa. Quan tâm tạo điều kiện để những người có năng lực phát huy được tài năng và phẩm chất của mình, để họ trở thành nhà lãnh đạo, quản lý, trong khoa học, công nghệ, trong sản xuất kinh doanh; là những người xuất sắc, ưu tú trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội. Có chính sách trợ giúp thiết thực để đẩy mạnh đào tạo nghề cho nông dân và lao động nông thôn, đáp ứng cho yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và tìm việc làm ngoài khu vực nông thôn.

Năm là, đẩy mạnh việc thực hiện “liên kết 4 nhà” theo hướng hình thành chuỗi sản xuất tiêu thụ, thành những tổ hợp nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ. Theo đó, để phát huy vai trò, trách nhiệm trong “liên kết 4 nhà” thì lời giải cho bài toán liên kết, hợp tác 4 nhà là cần phải có cơ chế, chính sách bảo đảm lợi ích của các bên. Tiếp tục phát triển và mở rộng thị trường để tổ chức tốt việc tiêu thụ nông, lâm sản, thủy sản cho nông dân. Đồng thời, cần có cơ chế, lộ trình để đưa khoa học công nghệ vào sản xuất nhanh chóng, kịp thời, nhất là việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ.

Sáu là, chú trọng triển khai thực hiện tốt việc liên kết đầu tư, phát triển vùng, nhằm phát triển mạnh những ngành, lĩnh vực mà các tỉnh, thành phố có lợi thế trên cơ sở quy hoạch đồng bộ từ phát triển kinh tế - xã hội đến các quy hoạch ngành, các sản phẩm chủ lực của mỗi địa phương. Việc liên kết vùng được thực hiện với sự phân công, phối hợp giữa các địa phương./.