Trình Quốc hội việc phê chuẩn hai Công ước của Liên hợp quốc
Tạo cơ sở cho việc tăng cường đối thoại về nhân quyền
Mở đầu phiên họp, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang trình bày Tờ trình về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật.
Tờ trình nêu rõ Công ước của Liên hợp quốc về Quyền của người khuyết tật được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 13-12-2006 là Công ước quốc tế toàn diện nhất về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khuyết tật.
Tính đến tháng 3-2014, trên thế giới đã có 158 quốc gia ký Công ước và 141 quốc gia đã phê chuẩn Công ước này. Trong khối ASEAN, đã có tám nước phê chuẩn Công ước, hai nước đã ký Công ước nhưng chưa phê chuẩn là Việt Nam và Bru-nây.
Việt Nam đã ký Công ước Quyền của người khuyết tật vào ngày 22-10-2007. Việc phê chuẩn Công ước này là bước hoàn thành thủ tục để Việt Nam trở thành thành viên Công ước.
Công ước Quyền của người khuyết tật là một điều ước quốc tế về nhân quyền. Công ước xác định các quyền của người khuyết tật và nghĩa vụ của các quốc gia tham gia Công ước nhằm bảo vệ và đẩy mạnh các quyền này. Việc phê chuẩn Công ước vào thời điểm hiện nay của Nhà nước là rất quan trọng, nhằm thực hiện đúng cam kết của quốc gia, tạo cơ sở cho việc tăng cường đối thoại về nhân quyền và trao đổi với các nước, các tổ chức quốc tế về nhân quyền.
Việc phê chuẩn Công ước Quyền của người khuyết tật sẽ là một cam kết chính trị mạnh mẽ của Việt Nam trong bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển vì lợi ích dành cho người khuyết tật.
Đây cũng là một trong những căn cứ pháp lý để Việt Nam khẳng định quan điểm của mình đối với thế giới trong lĩnh vực người khuyết tật nói riêng và nhân quyền nói chung, có ý nghĩa quan trọng khi Việt Nam đã trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 - 2016.
Khi phê chuẩn Công ước Quyền của người khuyết tật, Chính phủ kiến nghị không bảo lưu điều khoản nào của Công ước và kiến nghị nên tuyên bố như sau: “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tuyên bố tôn trọng và bảo vệ quyền và lợi ích của người khuyết tật phù hợp với pháp luật trên tất cả các lĩnh vực bình đẳng như người không có khuyết tật”.
Báo cáo một số vấn đề về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Phạm Thị Hải Chuyền nêu rõ việc phê chuẩn Công ước Quyền của người khuyết tật sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về người khuyết tật, tạo cơ sở pháp lý bảo đảm việc thực hiện chính sách đối với người khuyết tật; thúc đẩy khả năng và cơ hội cho người khuyết tật trong việc tìm kiếm việc làm tốt hơn trong tương lai của họ, bảo đảm cuộc sống cho người khuyết tật.
Tuy nhiên, việc phê chuẩn Công ước Quyền của người khuyết tật cũng đòi hỏi Việt Nam - với tư cách quốc gia thành viên phải tuân thủ các quy định của Công ước, trong đó có việc bảo đảm quyền tiếp cận của người khuyết tật đối với môi trường vật chất, giao thông, thông tin và truyền thông. Điều này sẽ đòi hỏi phải thúc đẩy việc thực hiện lộ trình cải tạo môi trường vật chất, giao thông, thông tin và truyền thông theo quy định của Luật Người khuyết tật; đồng thời, nâng cấp các công trình cũ để đáp ứng yêu cầu của Công ước.
Báo cáo cũng đánh giá về cơ bản, pháp luật Việt Nam tương thích với các quy định của Công ước Quyền của người khuyết tật.
Tuy nhiên, để bảo đảm thực thi đầy đủ Công ước Quyền của người khuyết tật vào thực tiễn, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội kiến nghị về việc sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện pháp luật như sau: thống nhất sử dụng thuật ngữ “khuyết tật” trong toàn hệ thống pháp luật để phù hợp với khái niệm người khuyết tật quy định tại Điều 1 và Điều 2 của Công ước; đẩy nhanh tiến độ triển khai thực hiện lộ trình cải tạo nhà chung cư, trụ sở làm việc, công trình công cộng theo quy định tại Luật Người khuyết tật để phù hợp với quy định tại Điều 9 của Công ước; tăng cường hơn nữa việc thực hiện chính sách ưu đãi đối với cán bộ, giáo viên, giảng viên tham gia giáo dục hòa nhập, giáo dục bán hòa nhập người khuyết tật; xây dựng quy định cụ thể về giáo dục hòa nhập ở tất cả các cấp;...
Báo cáo thẩm tra về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về quyền của người khuyết tật do Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội Trần Văn Hằng trình bày thể hiện sự nhất trí với Tờ trình của Chủ tịch nước và báo cáo của Chính phủ về sự cần thiết gia nhập công ước này.
Ủy ban Đối ngoại cho rằng việc Quốc hội phê chuẩn Công ước này tại kỳ họp thứ tám là hết sức cần thiết và nhất trí với Tờ trình của Chủ tịch nước và báo cáo của Chính phủ không bảo lưu điều khoản nào của Công ước.
Để triển khai thực hiện Công ước sau khi được Quốc hội phê chuẩn, Ủy ban đề nghị Chính phủ rà soát các quy định pháp luật ban hành nhưng chưa có các quy định chi tiết tương thích với Công ước; hoặc đã thực hiện nhưng còn gặp vướng mắc, khó khăn, qua đó đề xuất các biện pháp bảo đảm tính khả thi của các quy định đó.
Căn cứ điều kiện Việt Nam, Chính phủ cần xây dựng và đẩy nhanh lộ trình thực hiện Công ước với các yêu cầu, mục tiêu, chính sách cụ thể cho từng giai đoạn,...
Bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người cơ bản ở Việt Nam
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã trình bày Tờ trình về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.
Bộ trưởng Bộ Công an Trần Đại Quang, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Báo cáo một số vấn đề về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người.
Báo cáo thẩm tra về việc phê chuẩn Công ước của Liên hợp quốc về chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người do Chủ nhiệm Ủy ban đối ngoại của Quốc hội Trần Văn Hằng trình bày nêu rõ Ủy ban Đối ngoại nhất trí về sự cần thiết phê chuẩn Công ước chống tra tấn vào thời điểm hiện nay.
Việc phê chuẩn Công ước phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước nhằm bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người cơ bản ở Việt Nam, góp phần vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 2013, trong đó khẳng định mọi người có quyền không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (Điều 20).
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng không những đối với công tác bảo vệ và thực thi quyền con người tại Việt Nam mà còn góp phần hiệu quả vào công tác đấu tranh chống các luận điệu vu cáo, xuyên tạc về việc tra tấn, ngược đãi phạm nhân, người bị tạm giữ, tạm giam của các thế lực thù địch nhằm chống phá Nhà nước.
Với việc trở thành thành viên đầy đủ của Công ước chống tra tấn, Việt Nam có thêm điều kiện tranh thủ sự ủng hộ của dư luận tiến bộ thế giới, tạo cơ sở cho việc tăng cường đối thoại về nhân quyền với các nước, các tổ chức quốc tế và tham gia hiệu quả hơn vào các thiết chế bảo vệ nhân quyền của Liên hợp quốc.
Việc phê chuẩn Công ước chống tra tấn càng có ý nghĩa khi Việt Nam đã trở thành thành viên Hội đồng nhân quyền của Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2014 -2016, thể hiện quyết tâm và cam kết của Việt Nam trong việc ghi nhận và bảo đảm thực thi các quy định và chuẩn mực của Liên hợp quốc về nhân quyền.
Đồng thời việc phê chuẩn Công ước chống tra tấn giúp Việt Nam có điều kiện tiến hành rà soát để sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật có liên quan, cụ thể là quyền không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hay hạ nhục con người cho phù hợp hơn với Công ước và các quy chuẩn chung của pháp luật quốc tế về quyền con người.
Tuy vậy, Ủy ban Đối ngoại cho rằng việc trở thành thành viên chính thức của Công ước cũng đặt ra yêu cầu về việc nội luật hóa một số quy định của Công ước cũng như tăng cường năng lực của các cơ quan nhà nước trong việc thực thi đầy đủ các quy định của Công ước.
Ủy ban Đối ngoại nhất trí với đề xuất của Chính phủ không áp dụng trực tiếp quy định của Công ước chống tra tấn tại Việt Nam, bảo lưu quy định tại Điều 20 của Công ước liên quan đến thẩm quyền của Ủy ban chống tra tấn và Khoản 1 Điều 30 về việc giải quyết tranh chấp liên quan đến giải thích hay áp dụng Công ước; đồng thời, nhất trí với tuyên bố Việt Nam không áp dụng trực tiếp các quy định của Công ước chống tra tấn; việc thực hiện các quy định của Công ước chống tra tấn sẽ theo quy định của Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở các thỏa thuận hợp tác song phương hoặc đa phương với nước khác và nguyên tắc có đi có lại.
Việt Nam không coi Công ước chống tra tấn là cơ sở pháp lý trực tiếp về dẫn độ là quan điểm nhất quán của Việt Nam khi tham gia các điều ước quốc tế trong lĩnh vực hình sự.
Thảo luận một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi)
Báo cáo tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự án Luật Bảo hiểm xã hội (sửa đổi) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho thấy, việc đưa nhóm lao động làm việc theo hợp đồng lao động mùa vụ hoặc một công việc nhất định có thời hạn từ 1 tháng đến dưới 3 tháng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc là cần thiết nhằm tiếp tục mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo đảm an sinh xã hội cho người lao động khi không còn khả năng lao động.
Nhiều đại biểu đồng tình với quan điểm này và cho rằng nhóm lao động này chủ yếu làm việc trong khu vực có quan hệ lao động nhưng trên thực tế thường bị người sử dụng lao động vận dụng hình thức ký hợp đồng lao động dưới 3 tháng để không phải thực hiện nghĩa vụ bảo hiểm xã hội do Luật hiện hành chưa quy định người lao động làm việc theo hợp đồng mùa vụ là đối tượng phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, gây thiệt thòi cho người lao động.
Đồng tình cao với việc điều chỉnh mức hưởng lương hưu hằng tháng (Điều 56) để khắc phục tình trạng mất cân đối trong đóng - hưởng bảo hiểm xã hội, song cũng còn có những ý kiến khác nhau về các phương án đưa ra.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng trong điều kiện tuổi nghỉ hưu được thực hiện theo quy định của Bộ luật Lao động thì cần giảm thiểu tác động bất lợi đối với người lao động nghỉ hưu, đặc biệt là lao động nữ. Việc thực hiện quy định này phải đồng bộ với lộ trình điều chỉnh mức đóng bảo hiểm xã hội (theo Điều 90 Bộ luật Lao động) để bảo đảm tiền lương hưu người lao động thực nhận không bị sụt giảm nhiều so với trước.
Bên cạnh đó, do tuổi nghỉ hưu của nam, nữ chênh lệch 5 năm nên cần phải bảo đảm bình đẳng giới khi điều chỉnh chính sách này thông qua việc xây dựng lộ trình nâng số năm đóng bảo hiểm xã hội của nam giới từ 15 năm lên 20 năm để đạt 45% mức bình quân tiền lương tháng tính lương hưu (cụ thể: năm 2018 là 16 năm; năm 2019 là 17 năm; năm 2020 là 18 năm; năm 2021 là 19 năm và từ năm 2022 trở đi là 20 năm).
Việc thực hiện phương án điều chỉnh tỷ lệ hưởng lương hưu hằng tháng theo lộ trình, từ năm 2018, mức lương hưu hằng tháng của người lao động được tính bằng 45% mức bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội tương ứng với 15 năm đóng bảo hiểm xã hội của lao động nữ và 20 năm đóng bảo hiểm xã hội của lao động nam, cứ thêm mỗi năm, người lao động được tính thêm 2%, mức tối đa bằng 75% sẽ tạo điều kiện để người lao động có thời gian thích ứng với các thay đổi chính sách theo nguyên tắc đóng - hưởng.
Đại biểu Lê Trọng Sang cho rằng, cách tính theo dự thảo Luật sẽ làm thiệt hại quyền lợi của người lao động. Với mức lương hưu của năm 2018, nam ở mức 45% và nữ ở mức 55% với 20 năm đóng bảo hiểm xã hội, sẽ thấp hơn so với người nghỉ hưu vào năm 2017 tương ứng là 10% và 5%. Sau 5 năm điều chỉnh, lao động nam và nữ phải có 35 năm đóng bảo hiểm xã hội mới đạt mức tối đa là 75%.
Cũng như vậy, đại biểu Nguyễn Trung Thu nhìn nhận, mặc dù có ý kiến cho rằng tỷ lệ hưởng lương hưu tối đa 75% là cao so với các nước trên thế giới và cao hơn so với các nước đóng bảo hiểm hưu trí nhưng mức lương hưu hiện nay chỉ bằng 75% so với mức lương tối thiểu, thực tế không đáp ứng được mức sống tối thiểu của người nghỉ hưu.
Cách tính lương hưu theo dự thảo Luật sẽ phát sinh những điều bất hợp lý mới. Đó là người lao động nghỉ hưu từ ngày 01-01-2018 sẽ bị giảm 10% so với người nghỉ hưu từ 31-12-2017. Đại biểu đề nghị giữ nguyên cách tính lương hưu như hiện nay, đóng bảo hiểm xã hội 15 năm được hưởng 45% bình quân tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội và tỷ lệ thay thế là 2% với nam và 3% với nữ.
Theo đại biểu Bùi Sỹ Lợi (Thanh Hóa) khoản 4 Điều 56, quy định mức lương hưu không thấp hơn mức lương cơ sở, như vậy đã tạo ra một mức sàn cho người tham gia bảo hiểm xã hội. Hiện nay, trên thực tế mức tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội là khá thấp (chỉ khoảng 60% - 70% thu nhập thực tế), có những người hưởng lương rất cao trong những năm cuối.
Nhiều ý kiến đại biểu tán thành với việc giao chức năng thanh tra cho tổ chức bảo hiểm xã hội với quan điểm đây là cơ quan nhà nước được giao trách nhiệm đối với trụ cột an sinh xã hội chủ yếu, quản lý quỹ tài chính rất lớn liên quan đến an sinh xã hội của hàng chục triệu người lao động, không phải là đơn vị sự nghiệp chuyên môn thuần túy mà là một tổ chức tài chính, được Nhà nước giao chức năng quản lý, sử dụng, đầu tư sinh lời đối với quỹ bảo hiểm xã hội và tổ chức cung cấp dịch vụ công.
Việc bổ sung chức năng thanh tra đóng bảo hiểm xã hội sẽ tạo điều kiện để nâng cao trách nhiệm của tổ chức bảo hiểm xã hội, khắc phục mạnh mẽ hơn những tồn tại hiện nay đối với việc chấp hành pháp luật bảo hiểm xã hội, bảo vệ tốt hơn quyền lợi người lao động.
Ngược lại, đại biểu Phạm Thị Hải (Đồng Nai) lại cho rằng, việc giao chức năng thanh tra đóng bảo hiểm xã hội cho tổ chức bảo hiểm xã hội là chưa phù hợp, không thể “lưỡng tính,” vừa là cơ quan nhà nước, vừa là tổ chức tài chính. Điều này vừa mâu thuẫn với một số quy định hiện hành, vừa gây chồng chéo.
Đối với vấn đề chi phí quản lý bảo hiểm xã hội, đại biểu tán thành phương án quy định chi phí quản lý bảo hiểm xã hội hằng năm được trích từ tiền sinh lời của hoạt động đầu tư từ quỹ; mức cụ thể do Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định 3 năm một lần đồng thời, hằng năm Chính phủ phải báo cáo Quốc hội tình hình quản lý và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội để bảo đảm chi phí quản lý bảo hiểm xã hội được sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, công khai, minh bạch.
Nhiều nội dung khác liên quan đến tiền lương tháng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, điều chỉnh mức hưởng lương hưu hằng tháng để khắc phục tình trạng mất cân đối trong đóng - hưởng bảo hiểm xã hội, việc giao thẩm quyền thanh tra cho cơ quan bảo hiểm xã hội cũng được nhiều đại biểu đề cập đến tại phiên họp./
Thực hiện một số Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em: Những yếu tố thành công và giải pháp duy trì  (23/10/2014)
Thực hiện một số Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ về chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em: Những yếu tố thành công và giải pháp duy trì  (23/10/2014)
Mọi hoạt động của Trung Quốc tại Trường Sa là bất hợp pháp  (23/10/2014)
Tạo thuận lợi trong việc đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam  (23/10/2014)
Chủ tịch nước gặp mặt Đoàn cựu chiến binh Sư đoàn I Anh hùng  (23/10/2014)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên