Bảo đảm và tăng cường pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

ThS. Vũ Duy Duẩn Văn phòng Chính phủ
17:05, ngày 30-08-2013
TCCSĐT - Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là bước đi có tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là quá trình lâu dài với nhiều nội dung phải thực hiện, trong đó có việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước.

Pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

Pháp chế là một chế độ và trật tự pháp luật trong đó tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải tôn trọng và thực hiện một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác. Pháp chế và pháp luật có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng không đồng nhất. Pháp chế thể hiện sự đòi hỏi và những yêu cầu đối với các chủ thể pháp luật phải triệt để tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật trong đời sống xã hội, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.

Một nền pháp chế thống nhất, vững chắc là cơ sở cần thiết cho hệ thống pháp luật điều chỉnh có hiệu quả các quan hệ xã hội, phát huy được hiệu lực của mình; mặt khác, chỉ khi có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ, phù hợp và được sửa đổi, điều chỉnh, bổ sung kịp thời khi cần thiết, thì nền pháp chế mới được củng cố và tăng cường.

Pháp chế cần được đề cao thành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước. Nó đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước phải được tiến hành theo đúng quy định của pháp luật; mọi công chức hành chính phải nghiêm chỉnh và triệt để tôn trọng pháp luật khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình; mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm minh. Các tổ chức chính trị, xã hội cũng có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật của Nhà nước. Thực hiện tốt nguyên tắc pháp chế là cơ sở bảo đảm cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, đồng bộ, phát huy đầy đủ hiệu lực của mình và bảo đảm công bằng xã hội. Hiến pháp năm 1992 của nước ta quy định “Nhà nước quản lý xã hội theo pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”.

Chủ thể quản lý hành chính nhà nước mang quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hành pháp, bao gồm: cơ quan hành chính nhà nước và công chức của những cơ quan này; thủ trưởng của các cơ quan nhà nước; các công chức nhà nước, cá nhân hoặc tổ chức xã hội được Nhà nước ủy quyền quản lý hành chính đối với một số loại việc nhất định. Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tính thống nhất, được tổ chức chặt chẽ. Để bảo đảm tính pháp chế trong hoạt động hành pháp, bộ máy các cơ quan hành pháp được tổ chức thành một khối thống nhất từ Trung ương tới địa phương, đứng đầu là Chính phủ, nhờ đó các hoạt động của bộ máy được chỉ đạo, điều hành thống nhất, bảo đảm lợi ích chung của cả nước, bảo đảm sự liên kết, phối hợp nhịp nhàng giữa các địa phương tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống, tránh được sự cục bộ, phân tán giữa các địa phương hay vùng, miền khác nhau. Tuy nhiên, do mỗi địa phương đều có những nét đặc thù riêng về điều kiện kinh tế - xã hội, nên để có thể phát huy tối đa thế mạnh của từng địa phương, tạo sự năng động sáng tạo trong quản lý điều hành, bộ máy hành chính còn được tổ chức theo hướng phân cấp, trao quyền tự quyết, tạo sự chủ động, sáng tạo cho chính quyền địa phương.

Ở nước ta, nguyên tắc “hai chiều lệ thuộc” được sử dụng như một giải pháp hữu hiệu trong việc tổ chức bộ máy hành chính nhà nước. Theo đó, ngoài Chính phủ là cơ quan đứng đầu bộ máy hành chính nhà nước thì mỗi cơ quan khác trong bộ máy đều có mối quan hệ hai chiều: theo chiều dọc để bảo đảm sự thống nhất của bộ máy và theo chiều ngang để bảo đảm sự chủ động của mỗi cấp quản lý. Vấn đề căn bản là xác định hợp lý thẩm quyền của mỗi cấp quản lý, vừa tránh được sự chồng chéo chức năng, vừa không bỏ lọt những lĩnh vực cần quản lý; vừa bảo đảm sự điều hành xuyên suốt, thống nhất trong bộ máy, vừa tạo ra được sự chủ động, sáng tạo của mỗi cấp quản lý, có như vậy mới vừa bảo đảm thống nhất lợi ích chung của Nhà nước, vừa bảo đảm lợi ích của từng địa phương.

Tính thống nhất của pháp chế xã hội chủ nghĩa đòi hỏi bộ máy hành chính và mọi công dân trong cả nước phải nhận thức và thực hiện thống nhất đối với toàn bộ hệ thống pháp luật đã ban hành. Nó không cho phép mỗi nơi có luật lệ riêng, duy trì tình trạng “phép vua thua lệ làng”, thực hiện pháp luật của Nhà nước theo cách “vận dụng” riêng của mình. Nó chống lại tính cục bộ, địa phương. Bảo đảm tính thống nhất của pháp chế là điều kiện không thể thiếu để thực hiện dân chủ đối với mọi công dân và thực thi quyền lực của nhà nước.

Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

Thứ nhất, tính ổn định và minh bạch của pháp luật

Hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, pháp luật về mỗi ngành, lĩnh vực là cơ sở thiết lập môi trường pháp luật, tạo ra vùng tự do cho các hành vi pháp lý. Mỗi hệ thống pháp luật, mỗi đạo luật là sự thiết lập các giá trị xã hội, các chuẩn mực ứng xử chung áp dụng cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ xã hội được pháp luật điều chỉnh. Môi trường pháp lý, các giá trị xã hội, các chuẩn mực ứng xử tạo ra những giới hạn hành động cho các chủ thể.

Tính ổn định của pháp luật với nghĩa là các quy định của nó được khái quát đủ thiết lập một không gian và thời gian hành động cho các chủ thể. Theo đó, mỗi chủ thể được định hướng hành vi, định hướng và nhận dạng các giá trị xã hội, các chuẩn mực ứng xử khi tham gia vào quan hệ pháp luật cụ thể.

Tính minh bạch của pháp luật với nghĩa nó phải được tuyên ngôn chính thức, rõ ràng và đến với xã hội; phải là sự quy định phân minh, rõ ràng, công khai về quyền, nghĩa vụ của các chủ thể; là sự xác định rõ, dứt khoát về các chế tài bảo đảm thực thi pháp luật.

Tính ổn định và minh bạch của pháp luật là sự bảo đảm cho công dân có thể chủ động, tính cực tham gia vào các quan hệ pháp luật và kiểm soát được hoạt động của bộ máy công quyền thông qua những quy trình, thủ tục xác định; là sự bảo đảm cho các chủ thể dự báo trước các hành vi pháp lý, có thể tránh được những tranh chấp, xung đột, tạo nên niềm tin đối với quản lý nhà nước. Trong nhà nước pháp quyền, minh bạch và ổn định pháp luật phải được thể hiện trong cả quá trình lập pháp và hành pháp.

Thứ hai, yếu tố kỹ thuật pháp lý

Bảo đảm kỹ thuật pháp lý là một trong những yếu tố quan trọng trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật. Chất lượng và hiệu quả pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào kỹ thuật pháp lý. Hơn nữa, trong điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay, yêu cầu về kỹ thuật pháp lý cần phải được coi trọng và xác định được nội dung cụ thể để vận dụng vào quá trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và từng bước hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật.

Để bảo đảm kỹ thuật pháp lý trong xây dựng và hoàn thiện pháp luật, cần chú trọng các nội dung sau:

- Xác định quy trình chuẩn mực, tối ưu, là cơ sở cho quá trình xây dựng pháp luật. Chẳng hạn, việc soạn thảo dự án luật phải bắt đầu từ việc khảo sát, điều tra ban đầu đến đánh giá, tổng kết, phân tích kết quả; từ dự thảo đến hoàn chỉnh, thẩm tra và thông qua.

- Lựa chọn cơ cấu thể hiện quy phạm và khả năng sử dụng đúng, chính xác quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội.

- Bảo đảm tính cân đối, thống nhất và xác lập mối liên hệ giữa các văn bản pháp luật trong cùng một hệ thống; giữa các chế định trong cùng một đạo luật hoặc giữa các quy phạm trong mỗi chế định. Diễn đạt rõ ràng, dễ hiểu và đơn nghĩa là những yêu cầu có tính nguyên tắc trong kỹ thuật pháp lý.

- Bảo đảm tính cụ thể, giảm tối đa việc diễn đạt qua yếu tố trung gian hoặc qua nhiều văn bản hướng dẫn thi hành.

- Bảo đảm tính ổn định, hệ thống các khái niệm rõ ràng, chính xác, phù hợp với phạm vi điều chỉnh.

Thứ ba, ý thức chấp hành pháp luật

Pháp luật là cơ sở của pháp chế, để có pháp chế đòi hỏi phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng thời phải có sự tự giác thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp luật, một bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả trong việc bảo đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh. Pháp chế đòi hỏi các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các hành vi vi phạm Hiến pháp và pháp luật.

Ý thức pháp luật bao hàm nhận thức pháp luật và ý thức chấp hành pháp luật của các chủ thể trong xã hội. Vì vậy, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong cán bộ, nhân dân có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao ý thức pháp luật.

Giải pháp bảo đảm và tăng cường pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

Pháp luật xã hội chủ nghĩa bảo đảm cho công dân quyền tự do, bình đẳng, công bằng, và tuân theo Hiến pháp, pháp luật là nghĩa vụ của mỗi công dân. Công dân phải tôn trọng và thực hiện pháp luật một cách chính xác, triệt để, phải xử sự theo đúng yêu cầu của pháp luật. Nhân dân lao động là người chủ đất nước, cho nên nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa còn đòi hỏi công dân có trách nhiệm tham gia quản lý các công việc Nhà nước dưới các hình thức trực tiếp hoặc gián tiếp. Công dân tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội, đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật. Để bảo đảm sự an toàn về mặt pháp lý cho mỗi công dân, nguyên tắc pháp chế cho phép công dân được làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, mọi công dân khi sử dụng các quyền, tự do dân chủ của mình không được gây thiệt hại đến lợi ích, tự do của công dân khác và của xã hội. Ngoài việc đòi hỏi đối với công dân, pháp chế còn đòi hỏi mọi cá nhân khác như người nước ngoài và người không có quốc tịch cũng phải tôn trọng và thực hiện pháp luật nghiêm chỉnh.

Pháp chế là cơ sở để xây dựng và hoàn thiện dân chủ xã hội chủ nghĩa, là nền tảng vững chắc để duy trì và thực hiện những nguyên tắc của dân chủ xã hội chủ nghĩa, tạo ra tính tổ chức, kỷ luật, thiết lập kỷ cương của xã hội, bảo đảm công bằng xã hội. Sự nghiệp đổi mới ở đất nước ta hiện nay đòi hỏi phải không ngừng củng cố và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, đồng thời với việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Có thể nói dân chủ xã hội chủ nghĩa càng được mở rộng thì pháp chế xã hội chủ nghĩa càng được tăng cường và ngược lại việc tăng cường pháp chế sẽ là điều kiện để củng cố, phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tăng cường pháp chế trong điều kiện nước ta cần tập trung vào một số nội dung chủ yếu:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác pháp chế

Đảng đưa ra các chủ trương, định hướng trong phát triển kinh tế, xã hội làm cơ sở Nhà nước xây dựng và ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, tăng cường pháp chế. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi phân biệt rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức đảng với chính quyền để tránh hiện tượng bao biện, làm thay. Các tổ chức đảng cần gương mẫu, tiên phong trong cuộc đấu tranh nhằm bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của mỗi bộ phận cấu thành hệ thống chính trị xã hội.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác pháp chế còn thể hiện ở việc phát huy vai trò lãnh đạo, định hướng của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, đối với toàn xã hội trong việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân.

Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật để quản lý hành chính nhà nước

Đây là một nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trước hết nó đòi hỏi tất cả các quan hệ xã hội quan trọng phải được điều chỉnh bằng pháp luật. Nhà nước xây dựng và không ngừng hoàn thiện Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời phải bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và luật nhằm tạo ra sự thống nhất của hệ thống pháp luật.

Yêu cầu về tính tối cao của Hiến pháp và luật còn đòi hỏi văn bản của các cơ quan chấp hành và điều hành phải được ban hành phù hợp với văn bản của các cơ quan quyền lực, cơ quan đại biểu; văn bản của các cơ quan cấp dưới phải được ban hành phù hợp với văn bản của cơ quan cấp trên, nhưng phải bảo đảm sự phân định rõ ràng về thẩm quyền của các cơ quan ở mỗi cấp; mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Các văn bản của cơ quan có thẩm quyền ban hành phải bảo đảm tính hợp pháp, hợp lý. Thực hiện được như vậy sẽ tránh được tình trạng tản mạn, trùng lặp, chồng chéo hoặc mâu thuẫn giữa các quy phạm pháp luật, tạo nên tính thống nhất của hệ thống pháp luật, làm cho việc nhận thức và thực hiện pháp luật chính xác, thống nhất hơn.

Trong trường hợp có sự mâu thuẫn giữa văn bản của các cơ quan hành chính, văn bản của các tổ chức, đoàn thể xã hội với các văn bản luật của nhà nước thì phải áp dụng quy định của các văn bản luật. Để thực hiện tốt yêu cầu này cần không ngừng xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đồng thời phải thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp đối với các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, các văn bản của các tổ chức đoàn thể xã hội từ Trung ương tới địa phương.

Thứ ba, tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh

Công tác tổ chức thực hiện pháp luật có vai trò hết sức quan trọng, vì nếu có hệ thống pháp luật hoàn thiện nhưng tổ chức thực hiện không tốt cũng không mang lại hiệu quả.

Trên cơ sở quy định của hệ thống pháp luật, các cơ quan hành chính nhà nước căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn để thực hiện hoạt động quản lý hành chính nhà nước; căn cứ vào quy định của pháp luật để tác động, điều chỉnh đến các quan hệ thuộc thẩm quyền hành chính; không cho phép các cơ quan nhà nước thực hiện quản lý nhà nước một cách chủ quan, tuỳ tiện mà phải dựa vào pháp luật, làm đúng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành nguyên tắc pháp chế. Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền và giáo dục pháp luật nhằm tăng cường hiểu biết, nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân. Chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức có đủ trình độ, phẩm chất chính trị và khả năng công tác để sắp xếp vào các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước làm công tác pháp luật, pháp chế.

Thứ tư, thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước

Tăng cường thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý hành chính nhà nước là biện pháp nhằm bảo đảm cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Biện pháp này đòi hỏi trước hết phải thường xuyên kiểm tra hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước để phát hiện những sai sót lệch lạc, kịp thời uốn nắn, rút kinh nghiệm, bảo đảm cho bộ máy hành chính nhà nước hoạt động nhịp nhàng đúng nguyên tắc và yêu cầu của pháp luật.

Những vi phạm pháp luật, chế độ công vụ, quy tắc nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức phải được phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh theo nguyên tắc, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, bất kỳ ai dù ở cương vị nào cũng phải sống và làm việc theo pháp luật. Mọi hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công chức trong quản lý hành chính nhà nước đều có ảnh hưởng không tốt đến quá trình điều chỉnh pháp luật, làm tổn hại đến pháp chế. Do vậy, Nhà nước cần có những biện pháp hữu hiệu để xử lý nghiêm minh, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật. Đây vừa là yêu cầu song cũng là điều kiện để bảo đảm cho pháp chế được tăng cường, kỷ luật, kỷ cương hành chính được nâng cao./.