Những thành quả và hạn chế về nhận thức lý luận và thực tiễn qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992
Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, theo chúng tôi, về phương diện nhận thức lý luận và thực tiễn có những đổi mới về chất sau đây:
Một là, việc thừa nhận và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã tạo ra cơ sở kinh tế - xã hội cho sự phát triển tư tưởng lập hiến và lập pháp ở nước ta.
Chuyển từ một nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa, quan liêu, bao cấp, với nguồn tư tưởng lập hiến, lập pháp còn hạn chế, thậm chí nghèo nàn, nhân dân và xã hội nói chung ít có nhu cầu sử dụng pháp luật, sang nền kinh tế thị trường, theo đó Hiến pháp và pháp luật phát triển trước hết và chủ yếu bắt nguồn từ đòi hỏi của các quan hệ kinh tế, từ nhu cầu bảo vệ các quan hệ kinh tế nên tư tưởng lập hiến và lập pháp rất phong phú, đa dạng; người dân và xã hội nói chung ngày càng có nhu cầu sử dụng Hiến pháp, pháp luật để bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình, là một bước tiến lớn, rất quan trọng trong công việc lập hiến của nước ta. Từ đòi hỏi khách quan đó, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp năm 1992 tuyên bố: “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (Điều 15); “kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh” (Điều 21); “doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật” (Điều 22); “tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức không bị quốc hữu hóa” (Điều 23). Xuất phát từ đó, hàng loạt các đạo luật, bộ luật mới về kinh tế - dân sự - lao động lần lượt ra đời (mà trước đây không thể có) như Bộ luật Dân sự (năm 1995 và 2005); Bộ luật Lao động (năm 1995, 2003, 2006), Luật Doanh nghiệp (năm 1999, 2003, 2006), Luật Đầu tư (năm 2005), Luật Thương mại (năm 1997, 2005) và hàng chục đạo luật, bộ luật khác. Rõ ràng, không có tư duy pháp lý mới về kinh tế của Hiến pháp năm 1992 làm nền tảng, không thể có sự đổi mới và hoàn thiện pháp luật về kinh tế, không thể tạo lập được một trật tự các quan hệ kinh tế mới làm chỗ dựa vững chắc cho đổi mới các yếu tố của kiến trúc thượng tầng, giữ vững sự ổn định và phát triển xã hội; càng không thể xây dựng và hoàn thiện một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về kinh tế - dân sự - lao động đồng bộ và thống nhất như hiện nay; và càng không thể tạo nên một lực lượng vật chất góp phần xây dựng và phát triển kinh tế nước nhà trong hơn 26 năm đổi mới vừa qua.
Hai là, thừa nhận quyền con người là một bước đổi mới về tư duy lý luận chính trị - pháp lý, chỉ đạo việc xây dựng Hiến pháp và pháp luật theo định hướng đề cao và phát huy nhân tố con người.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, Hiến pháp năm 1992 đã dành một điều nói về quyền con người với nội dung khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50). Việc ghi nhận một điều nói về quyền con người với tư cách là một quy định chung trước khi ghi nhận các quyền và nghĩa vụ cơ bản, Hiến pháp năm 1992 thể hiện một bước tiến mới về tư duy lý luận và sự kế thừa một cách sâu sắc giá trị tiến bộ của tư duy chính trị - pháp lý của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của nhân loại, nhiều lần nhắc lại ý nghĩa của việc tôn trọng quyền con người trong các bản tuyên ngôn, như “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc” (Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ); “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791).
Ba là, đổi mới tư duy, kế thừa và phát triển những tư tưởng hợp lý của nhân loại về nhà nước pháp quyền trong hình thành nguyên tắc tổ chức quyền lực mới: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”, từng bước khắc phục những hạn chế của tổ chức bộ máy nhà nước trước đây.
Hiến pháp năm 1992 đặt nền móng cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến nước ta, thuật ngữ Nhà nước pháp quyền XHCN được trang trọng ghi nhận trong Hiến pháp: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” (Điều 2). Cùng với việc khẳng định bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền XHCN, Hiến pháp năm 1992 còn nhấn mạnh các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, như: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”; “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp” (Điều 2). Xuất phát từ lý luận về nhà nước pháp quyền và các nguyên tắc nền tảng về tổ chức quyền lực nhà nước, bộ máy nhà nước tiếp tục được cải cách, đổi mới, khắc phục một bước những hạn chế của mô hình trước đây. Quốc hội là một thiết chế dân chủ đại diện, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (nhưng không có toàn quyền như trong mô hình Xô-viết), ngày càng hoạt động thực quyền, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Các cơ quan hành chính nhà nước đứng đầu là Chính phủ được tiến hành cải cách theo định hướng xây dựng bộ máy quản lý đất nước phục vụ nhân dân ngày càng có hiệu lực, hiệu quả, trong sạch và minh bạch hơn. Các cơ quan tư pháp tích cực cải cách đã tăng cường lòng tin của nhân dân vào cán cân công lý, vào sự độc lập và hoạt động chỉ tuân theo pháp luật. Chính vì thế, có thể nói, Hiến pháp năm 1992 đã đặt nền móng cho việc tiếp tục đổi mới bộ máy nhà nước ta theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân trong thời gian qua.
Những hạn chế về nhận thức lý luận và thực tiễn
Bên cạnh những thành quả đạt được qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, cũng cho thấy những hạn chế chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, xã hội nói chung, các cơ quan, tổ chức và công dân nói riêng chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về bản chất và vai trò của Hiến pháp và pháp luật trong điều kiện kinh tế thị trường và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta.
Điều đó đã làm cho Hiến pháp hiện hành chưa phát huy đầy đủ vai trò là phương tiện để nhân dân giao quyền, nhân dân ủy quyền, là phương tiện thiết lập nên quyền lực nhà nước; chưa coi quyền lập hiến cao hơn quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp, nên nhân dân chưa được đặt đúng vai trò chủ thể của quyền lập hiến, chủ thể phân công quyền lực nhà nước. Hiến pháp chưa được quan niệm là phương tiện để giới hạn quyền lực nhà nước, đề cao, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Do chưa đổi mới tư duy lập hiến, lập pháp theo những quan niệm này, nội dung của Hiến pháp và pháp luật khó có những thay đổi đáp ứng đòi hỏi xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và Nhà nước pháp quyền XHCN; trên thực tế, lợi ích của con người, của công dân đây đó vẫn còn bị vi phạm.
Thứ hai, nhận thức nguyên tắc “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” chưa nhất quán và phù hợp với điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Các Hiến pháp nước ta đều trang trọng ghi nhận nguyên tắc: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Điều đó khẳng định quyền lực nhà nước là của nhân dân. Tuy nhiên, ở các quy định khác của Hiến pháp lại quy định nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân (HĐND) do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân (Điều 4 Hiến pháp năm 1959, Điều 6 Hiến pháp năm 1980 và Điều 6 Hiến pháp năm 1992). Với quy định này có nghĩa là nhân dân đã trao hết quyền lực nhà nước vốn là của mình cho các cơ quan đại diện. Trong khi đó, Hiến pháp năm 1946 trước khi xác định Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã dành 2 điều để quy định về quyền của nhân dân bãi miễn các đại biểu (Điều 20) và về quyền của nhân dân phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia. Nói cách khác, Hiến pháp năm 1946 đã xác định rõ quyền lực nhà nước là của nhân dân, nhân dân không trao hết quyền lực nhà nước của mình cho Nhà nước. Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình bằng các hình thức dân chủ trực tiếp và thông qua các cơ quan nhà nước.
Các bản Hiến pháp về sau của nước ta lại đi theo mô hình: “Tất cả quyền lực thuộc về các Xô-viết” (mô hình Xô-viết), theo đó, Quốc hội được xác định là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương; các cơ quan nhà nước khác đều do các cơ quan quyền lực nhà nước lập nên và chịu trách nhiệm báo cáo trước các cơ quan này. Mô hình này thể hiện rõ nét ở các quy định của Hiến pháp năm 1992 như sau:
- Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội, HĐND (Điều 6) mặc dầu đã bỏ khoản Quốc hội “Có thể quy định cho mình những quyền hạn và nhiệm vụ khác” (Điều 84 Hiến pháp năm 1980). Quốc hội không còn toàn quyền như Hiến pháp năm 1980.
- “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến” (Điều 83), “Chỉ Quốc hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp” (Điều 147). Các quy định này vô hình trung lãng quên quyền lập hiến của nhân dân thông qua phúc quyết Hiến pháp. Quy định trưng cầu dân ý trong Hiến pháp vẫn còn (Điều 53) nhưng suy từ quy định của Điều 147 trưng cầu dân ý lại chưa bao hàm phúc quyết Hiến pháp.
- Quyền bãi miễn (hoặc bãi nhiệm) đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND, một chế định cực kỳ quan trọng của cơ chế dân chủ trực tiếp, vốn là quyền chỉ của nhân dân (ai bầu ra đại biểu người đó có quyền bãi nhiệm) lại chuyển cho Quốc hội và HĐND. Hiến pháp năm 1946 khẳng định dứt khoát: “Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra” (Điều 20).
Như vậy, Hiến pháp hiện hành ghi nhận chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân, nhưng không ghi nhận các quyền dân chủ trực tiếp của nhân dân (như quyền lập hiến, quyền bãi nhiệm đại biểu...). Hiến pháp năm 1992 đã chưa đi đến cùng, chưa nhất quán với quan điểm chính trị về quyền lực nhân dân, trong khi Hiến pháp chính là văn bản thể hiện cao nhất, đầy đủ nhất về mặt pháp lý quyền lực nhà nước là của nhân dân. Cũng vì do thiếu nhất quán này mà quá trình thực hiện chủ quyền nhân dân, thực hiện dân chủ XHCN còn nhiều bất cập. Các cơ chế giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên ngoài cũng như từ bên trong bộ máy nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp chưa được coi trọng. Các cơ chế giám sát mang ý nghĩa quyết định của nhân dân như trưng cầu ý dân về Hiến pháp, về những vấn đề hệ trọng của đất nước... chưa được thực hiện trên thực tế. Chế độ bầu cử vốn là một phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước của nhân dân đây đó vẫn còn hình thức.
Ngày nay, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nếu cứ tiếp tục duy trì mô hình chuyển đổi toàn bộ quyền lực nhà nước của nhân dân cho Quốc hội với mong muốn Nhà nước có thể thay mặt nhân dân thực hiện toàn bộ quyền lực nhà nước của nhân dân là không còn phù hợp; làm cho nguyên tắc Hiến định: “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân” vẫn mang tính hình thức; không thể hình thành cơ chế hiến định hữu hiệu để bảo vệ quyền tối cao của nhân dân và kiểm soát một cách hữu hiệu sự tha hóa của quyền lực nhà nước.
Thứ ba, từ “tập quyền” sang “phân công, phối hợp quyền lực nhà nước” là một bước tiến mới về chất trong tổ chức quyền lực nhà nước, nhưng nhận thức không thống nhất, nhiều sức ỳ của “tập quyền” và lợi ích cục bộ cản trở việc tổ chức quyền lực theo nguyên tắc “phân công, phối hợp quyền lực”.
Hiến pháp hiện hành của nước ta chưa có sự phân công hợp lý nhiệm vụ, quyền hạn của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trước hết là phân công phối hợp giữa lập pháp và hành pháp - hai thiết chế vốn có quan hệ mật thiết với nhau, nhưng cũng dễ lấn sân nhau, dẫn đến lạm dụng quyền lực nhà nước. Sự phân công và phối hợp không hợp lý giữa lập pháp và hành pháp thể hiện trên một số quy định của Hiến pháp năm 1992 sau đây:
+ Điều 84 quy định Quốc hội có 14 nhiệm vụ và quyền hạn, nhưng vẫn còn chứa đựng các yếu tố của một Quốc hội toàn quyền theo mô hình tập quyền trước đây và vượt quá khả năng thực thi. Ví dụ: “Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội; quốc phòng - an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân” (Điều 83). Nhiệm vụ, quyền hạn này rất không xác định mà thực chất là một Quốc hội có quyền hạn, nhiệm vụ không bị giới hạn. Điều này là không phù hợp với vai trò của Hiến pháp trong nhà nước pháp quyền là giới hạn quyền lực nhà nước, dù đó là cơ quan đại diện cao nhất do nhân dân trực tiếp bầu ra. Việc phân công nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội không hợp lý nói trên dẫn đến một số hậu quả không tốt sau đây:
Một là, sự không giới hạn quyền lực nhà nước đó dẫn đến trên thực tế Quốc hội “lực bất tòng tâm”, chưa thực hiện tốt chức năng lập pháp. Quốc hội thông qua nhiều đạo luật với chất lượng không cao và phải ủy quyền cho Chính phủ và các bộ cụ thể hóa.
Hai là, do sự ủy quyền lập pháp cho Chính phủ và các bộ, lại thiếu cơ chế kiểm soát hữu hiệu sự ủy quyền này nên trên thực tế, sự lạm dụng quyền lực nhà nước từ phía hành pháp là không tránh khỏi. Mặc dù Hiến pháp quy định Quốc hội giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội; bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ... trái Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội” (Điều 84) nhưng trên thực tế Quốc hội không có khả năng thực hiện (chưa hủy bỏ hoặc đình chỉ được một văn bản nào). Vì thế, trong hoạt động của mình, Chính phủ rất “rộng tay” trong việc chủ động thực hiện các thẩm quyền mà Hiến pháp quy định là cơ quan “chấp hành của Quốc hội”. Đó là chưa kể về sau Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật lại giao cho Chính phủ ban hành những văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực quản lý nhà nước mà chưa có luật và pháp lệnh quy định (Điều 56). Đây là những văn bản quy phạm pháp luật được gọi là “nghị định không đầu” (phía trên các nghị định này không có luật và pháp lệnh điều chỉnh), lại tạo thêm điều kiện để Chính phủ ban hành các “nghị định không đầu”. Điều đáng nói là, có những “nghị định không đầu” này trái với nội dung và tinh thần của Hiến pháp và luật của Quốc hội và có biểu hiện lạm dụng quyền lực gây ra hậu quả nghiêm trọng nhưng lại chưa có cơ chế giám sát hữu hiệu để sớm phát hiện và xử lý kịp thời những văn bản quy phạm này.
+ Điều 109 Hiến pháp hiện hành quy định: “Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Điều quy định này về phương diện pháp lý đã đặt Chính phủ vào vị trí của một cơ quan thụ động với vai trò là chấp hành và thi hành. Vị trí này phù hợp với mô hình Xô-viết, mà không thích hợp với mô hình nhà nước pháp quyền. Bởi khái niệm “hành chính” theo khoa học pháp lý không bao hàm hành pháp, tức là một thiết chế có tính độc lập trong tổ chức quyền lực nhà nước. Có thừa nhận Chính phủ là một thiết chế thực hiện quyền hành pháp mới tạo cho Chính phủ có tính độc lập tương đối so với lập pháp, mới phát huy vai trò chủ động của Chính phủ trong việc đề xuất, soạn thảo, thẩm định các chính sách quốc gia dưới dạng các dự án luật để trình Quốc hội xem xét, thông qua và tiếp đó là tổ chức thực hiện luật trong thực tiễn. Đây là nhiệm vụ, quyền hạn hàng đầu của hành pháp (Chính phủ) trong nhà nước pháp quyền.
Hiện nay, trên 90% số dự án luật là do Chính phủ soạn thảo đưa trình Quốc hội xem xét, thông qua. Nhưng ở vị trí chấp hành của Quốc hội, được Quốc hội giao cho nhiệm vụ giúp Quốc hội soạn thảo dự án luật chứ không phải xuất phát từ nhu cầu và đòi hỏi của bản thân hành pháp. Chính vì chưa xem Chính phủ là cơ quan thực hành quyền hành pháp mà nhấn mạnh tính chấp hành Quốc hội, vô hình trung đã làm cho Chính phủ dựa dẫm, ỷ lại vào Quốc hội, không coi trọng đúng mức nhiệm vụ soạn thảo dự án luật dẫn đến chất lượng luật không cao.
Đối với quyền tư pháp: Ngoài Hiến pháp năm 1946 quy định chỉ duy nhất tòa án là cơ quan tư pháp, còn các Hiến pháp sau này, đặc biệt là Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi bổ sung một số điều năm 2001), mặc dù tại Điều 2 đã thừa nhận quyền tư pháp, nhưng cơ quan nào thực hiện quyền này, Hiến pháp lại chưa xác định. Do đó, việc phân công quyền lực nhà nước rơi vào chưa rõ ràng giữa lập pháp, hành pháp và tư pháp, đồng thời không bảo đảm được tính độc lập của tư pháp. Trong mối quan hệ với lập pháp, theo mô hình Xô-viết thì tính trội hơn thuộc về quyền lập pháp nên chỉ Quốc hội có quyền giám sát đối với tòa án; mà ngược lại tòa án không có quyền xem xét lại luật của Quốc hội. Trong mối quan hệ với quyền hành pháp, tòa án chỉ có quyền xem xét và phán quyết đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính mà chưa có quyền tài phán đối với văn bản pháp quy. Đồng thời, Tòa án tối cao cũng chưa được coi có quyền giải thích pháp luật, mặc dù giải thích luật thông qua hoạt động xét xử là một phương thức rất hiệu quả để bảo đảm cho hệ thống pháp luật nhất quán, đồng bộ, sớm bịt kín các lỗ hổng.
Sự độc lập của quyền tư pháp bao gồm: Một là, độc lập trong mối quan hệ với các quyền lập pháp và hành pháp. Hai là, độc lập của thẩm phán và hội thẩm nhân dân (hay bồi thẩm đoàn) khi xét xử không một cơ quan hay cá nhân nào có quyền can thiệp. Ba là, độc lập của mỗi cấp xét xử theo thẩm quyền. Việc phân công, phối hợp quyền lực nhà nước giữa quyền tư pháp với các quyền lập pháp và hành pháp cần phải bảo đảm nguyên tắc độc lập của tư pháp. Tuy nhiên, xét trên cả ba nội dung về tư pháp độc lập nói trên, thì tổ chức và hoạt động của tòa án nước ta chưa bảo đảm được tính độc lập. Điều đó đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49-NQ/TW, ngày 02-6-2005, của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Thứ tư, kiểm soát quyền lực nhà nước được nhận thức chưa đầy đủ, cơ chế thực thi hiệu lực và hiệu quả còn thấp.
Hiến pháp hiện hành của nước ta đã hình thành một cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước bằng phương thức giám sát tối cao của Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước (Điều 83); bằng kiểm tra, thanh tra trong bộ máy hành pháp (Điều 112); bằng giám sát, kiểm tra của cơ quan cấp trên đối với cơ quan cấp dưới (Điều 91, 114, 124); bằng giám đốc thẩm, tái thẩm trong hoạt động xét xử của tòa án (Điều 134) và bằng xét xử các quyết định hành chính và hành vi hành chính của các cấp tòa án, bằng kiểm sát của viện kiểm sát đối với hoạt động tư pháp.
Tuy nhiên, chỉ có cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói trên thì chưa đầy đủ và cũng chưa phát huy được hiệu lực và hiệu quả như mong muốn. Tình trạng lạm dụng quyền lực nhà nước dẫn đến tiêu cực, tham nhũng trong bộ máy nhà nước làm cho lòng dân không yên có nguyên nhân kiểm soát quyền lực chưa có hiệu quả. Sở dĩ như vậy, là do nhận thức không đầy đủ về mục đích, vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước. Theo tư duy của mô hình tập quyền, kiểm soát quyền lực nhà nước là nhằm bảo vệ quyền lực nhà nước, bảo vệ sự thống nhất của ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và bảo đảm sự thống nhất trong mỗi quyền. Ngược lại, trong nhà nước pháp quyền, kiểm soát quyền lực nhà nước là xuất phát từ nhân dân, chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Theo đó, kiểm soát quyền lực nhà nước trước hết là những phương thức, những quy trình, quy định mà dựa vào đó, xã hội có thể ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động sai trái của các thiết chế quyền lực nhà nước, bảo đảm cho quyền lực nhà nước thực thi đúng mục đích chung và đạt được hiệu quả cao nhất (nhà nước tự kiểm soát được mình). Vì thế, kiểm soát quyền lực trong nhà nước pháp quyền chỉ có thể đạt được khi có một cơ chế và điều kiện đầy đủ, cần thiết cho sự vận hành của nó trên thực tế. Cơ chế đó phải bao gồm kiểm soát cả từ bên ngoài lẫn từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước và đều hướng tới việc bảo đảm cho quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích, thực thi có hiệu lực và hiệu quả.
Điều kiện để cho cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hoạt động có hiệu quả là phải hình thành một môi trường dân chủ, công khai, minh bạch. Tất cả những khiếm khuyết nói trên cần được khắc phục trong lần sửa đổi Hiến pháp năm 1992 này./.
Tăng cường công tác tự phê bình và phê bình góp phần nâng cao chất lượng sinh hoạt ở các tổ chức cơ sở đảng  (07/08/2013)
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc làm việc ở Bến Tre  (06/08/2013)
Nhân sự mới của ba tỉnh: Điện Biên, Bắc Kạn, Long An  (06/08/2013)
Đoàn Quân sự Việt Nam thăm Nga và một số nước châu Âu  (06/08/2013)
Hà Nội ưu tiên hàng đầu cho phát triển văn hóa  (06/08/2013)
Họp Ban Chỉ đạo Hội nhập quốc tế về giáo dục, khoa học công nghệ  (06/08/2013)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên