Vai trò của Nhà nước trong thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam
Thương mại điện tử (TMĐT) được dự đoán sẽ có những đóng góp to lớn hơn nữa đối với mọi mặt của đời sống xã hội trong tương lai. Điều này được thể hiện ở chỗ, hầu hết các tổ chức thương mại trên thế giới đều có những khuyến cáo đối với các thành viên của mình hoặc đã có những cam kết nhằm hỗ trợ cho sự phát triển của TMĐT.
Về thương mại điện tử
Có nhiều thuật ngữ khác nhau dùng để chỉ hoạt động thương mại được thực hiện thông qua các phương tiện điện tử như: “Thương mại trực tuyến” (Online-Trade), “Thương mại điều khiển học” (Cyber-Trade), “Kinh doanh điện tử” (Electronic-Business) nhưng phổ biến nhất vẫn là thuật ngữ “thương mại điện tử” (Electronic-Commerce). Hiện nay, khi nói đến TMĐT nhiều người sẽ có liên hệ ngay đến Internet và cho rằng TMĐT gắn liền với Internet. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều quan điểm khác nhau về TMĐT, nhưng tựu trung lại có hai quan điểm về TMĐT là:
- Theo nghĩa rộng thì TMĐT bao gồm các giao dịch tài chính và thương mại bằng phương tiện điện tử như: trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interchange); chuyển tiền điện tử (Electronic Fund Transfer) và các hoạt động gửi rút tiền bằng thẻ tín dụng (Electronic Credit Card).
- Theo nghĩa hẹp thì TMĐT chỉ bao gồm những hoạt động thương mại được thực hiện thông qua mạng Internet mà không tính đến các phương tiện điện tử khác như điện thoại, fax, telex... Theo quan điểm này, TMĐT sẽ bị hạn chế trong phạm vi các giao dịch với khách hàng và thực hiện thanh toán thông qua mạng Internet.
Như vậy, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì hoạt động thương mại được thực hiện thông qua các phương tiện thông tin liên lạc đã tồn tại hàng chục năm nay và đạt tới doanh số hàng tỷ đô-la Mỹ (USD) mỗi ngày. Còn theo nghĩa hẹp thì TMĐT mới chỉ phát triển trong giai đoạn gần đây nhưng đã đạt được những kết quả rất đáng quan tâm. Trên thực tế, chính các hoạt động thương mại thông qua mạng Internet đã làm phát sinh thuật ngữ TMĐT, đồng thời cũng chính Internet là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển của TMĐT.
Lợi ích của thương mại điện tử
- Đối với doanh nghiệp
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, tình hình biến động của thị trường diễn ra hết sức nhanh chóng và phức tạp. Chủ thể tham gia TMĐT có thể thu thập được rất nhiều thông tin về thị trường, về đối tác một cách dễ dàng và nhanh chóng. Chính khả năng này của TMĐT đã giúp cho doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả trong hoạt động giao dịch, tiếp thị của mình, rút ngắn chu kỳ kinh doanh; tạo dựng, củng cố và phát triển quan hệ với các bạn hàng. Lợi ích này của TMĐT đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi vì nếu thực hiện hoạt động thương mại theo cách thức truyền thống thì các doanh nghiệp này khó có đủ khả năng về tài chính và nhân lực để có thể thu thập thông tin của thị trường một cách đầy đủ và kịp thời. Điều này càng có ý nghĩa trong giai đoạn hiện nay khi các doanh nghiệp nhỏ và vừa đang được nhiều nước quan tâm và được coi là một trong những động lực quan trọng để phát triển kinh tế.
Nếu so với thương mại truyền thống thì việc thu thập các thông tin của thị trường trên mạng Internet đã giúp cho doanh nghiệp giảm được đáng kể các chi phí trong việc thu thập thông tin. Ngoài ra, TMĐT còn giúp các doanh nghiệp giảm được chi phí văn phòng. Các văn phòng không giấy tờ chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều; bên cạnh đó, chi phí tìm kiếm, chuyển giao tài liệu đã giảm đi nhiều lần (trong đó khâu in ấn gần như bỏ hẳn). Theo số liệu của hãng General Electricity của Mỹ, việc ứng dụng TMĐT đã tiết kiệm được 30% chi phí văn phòng so với thương mại truyền thống. Ngoài ra, TMĐT cũng giúp cho doanh nghiệp giảm được các chi phí trong hoạt động bán hàng và tiếp thị. Thông qua Internet, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với nhiều khách hàng, catalogue điện tử trên Web phong phú hơn nhiều và thường xuyên được cập nhật so với catalogue in ấn.
- Đối với người tiêu dùng
TMĐT cũng đem lại không ít lợi ích cho người tiêu dùng, không phải mất thời gian và chi phí để đi đến cửa hàng; đồng thời, phạm vi lựa chọn mặt hàng rộng hơn vì có thể truy cập vào nhiều Website, tiếp cận trực tiếp với nhiều nhà cung cấp hàng hoá khác nhau; bỏ qua được các khâu trung gian để có thể mua hàng với giá rẻ. Ngoài ra, thông qua mạng Internet, người tiêu dùng còn có nhiều cơ hội để tiếp xúc với kho tàng văn hoá, kiến thức rộng lớn của thế giới nhằm nâng cao trình độ và cải thiện cuộc sống.
- Đối với nhà nước
TMĐT giúp cho các cơ quan nhà nước tinh giản bộ máy hành chính, giảm các chi phí hành chính, công tác báo cáo và thống kê chính xác hơn, nhanh hơn và đầy đủ hơn. Bên cạnh đó, tốc độ lưu chuyển văn thư sẽ giảm nhanh từ một vài ngày như hiện nay xuống còn vài giây, điều này sẽ giúp cho các cơ quan nhà nước có thể kịp thời chỉ đạo, giải quyết nhiều việc ở các vùng xa xôi.
Vai trò của Nhà nước trong phát triển thương mại điện tử
TMĐT có những đặc thù khác biệt so với thương mại truyền thống, do đó để bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể trong TMĐT cũng như đảm bảo trật tự trong nền kinh tế thì TMĐT cần được nhà nước quản lý chặt chẽ. Kinh nghiệm trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã chứng minh được vai trò quyết định của Nhà nước đối với sự phát triển của TMĐT. Vai trò của Nhà nước đối với TMĐT được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, xây dựng hệ thống cơ quan quản lý
Để hoạt động quản lý TMĐT đạt hiệu quả cao thì Nhà nước phải xây dựng hệ thống các cơ quan quản lý từ Trung ương đến địa phương. Hiện nay, trong hệ thống cơ quan quản lý nhà nước chỉ có Phòng quản lý TMĐT thuộc Cục TMĐT và công nghệ thông tin của Bộ Công Thương với tư cách là đơn vị độc lập, chuyên trách trong lĩnh vực quản lý TMĐT. Còn ở các Sở Công Thương hoàn toàn không có đơn vị độc lập quản lý hoạt động TMĐT mà chỉ có Phòng quản lý Thương mại. Điều này đã không đáp ứng được yêu cầu phát triển của TMĐT, bởi vì để quản lý tốt đối với TMĐT thì không chỉ đòi hỏi cơ quan quản lý có sự am hiểu về thương mại mà còn phải có sự hiểu biết nhất định về công nghệ thông tin. Thực trạng này càng trở nên bất cập đối với các tỉnh, thành phố có sự phát triển TMĐT mạnh mẽ như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh... Việc thành lập các đơn vị chuyên trách về TMĐT ở các Sở Công Thương sẽ hạn chế các rủi ro trong hoạt động TMĐT từ đó củng cố lòng tin của các doanh nghiệp, của người tiêu dùng khi tham gia vào TMĐT.
Thứ hai, đầu tư hạ tầng công nghệ
TMĐT là hệ quả tất yếu của sự phát triển kỹ thuật số hoá và công nghệ thông tin. Vì vậy, hạ tầng công nghệ của TMĐT với sự phát triển của kỹ thuật tính toán điện tử và truyền thông điện tử là quan trọng. Để phát triển TMĐT, hạ tầng công nghệ phải bảo đảm tính hiện hữu, nghĩa là phải có một hệ thống các chuẩn của doanh nghiệp, của quốc gia và các chuẩn này phải phù hợp với quốc tế. Các chuẩn này gắn với hệ thống các cơ sở kỹ thuật và thiết bị ứng dụng của quốc gia như một phân hệ của hệ thống mạng toàn cầu. Cùng với tính hiện hữu, hạ tầng công nghệ của TMĐT còn phải bảo đảm tính kinh tế, nghĩa là chi phí của hệ thống thiết bị kỹ thuật và chi phí dịch vụ truyền thông phải ở mức hợp lý để bảo đảm cho các tổ chức và cá nhân đều có khả năng chi trả và bảo đảm giá cả của các hàng hoá và dịch vụ thực hiện qua TMĐT không cao hơn so với thương mại truyền thống.
Đối với Việt Nam, mặc dù công cuộc đổi mới đã thực hiện được gần 30 năm, nền kinh tế đã có những bước phát triển đáng kể, kết cấu hạ tầng đã từng bước được đầu tư, phát triển. Trong lĩnh vực viễn thông, Nhà nước đã có nhiều biện pháp, chính sách để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng để tạo điều kiện cho TMĐT phát triển. Mặc dù Nhà nước đã có nhiều cố gắng trong việc phát triển kinh tế, xây dựng kết cấu hạ tầng mà đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin, nhưng nhìn chung, nền kinh tế của nước ta vẫn là một nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, sản xuất công nghiệp quy mô lớn mới bắt đầu hình thành, năng suất lao động còn thấp, hạ tầng kỹ thuật công nghệ vừa thiếu lại vừa chưa đồng bộ nên chưa tạo ra được hạ tầng công nghệ tốt nhằm thúc đẩy hoạt động TMĐT phát triển. Do đó, để xây dựng được hạ tầng công nghệ tiên tiến, đồng bộ nhằm đáp ứng yêu cầu và thúc đẩy sự phát triển của TMĐT thì Nhà nước cần đẩy mạnh hơn nữa các biện pháp cụ thể nhằm hoàn thiện hạ tầng công nghệ. Bên cạnh việc đề ra các mục tiêu mang tính chiến lược cần quan tâm đến các mục tiêu cụ thể cho từng giai đoạn và các biện pháp cụ thể để đạt được mục tiêu đó cho từng cơ quan, cá nhân có trách nhiệm, tránh tình trạng mục tiêu chung chung, biện pháp chung chung và người thực hiện không rõ ràng.
Thứ ba, tạo lập môi trường pháp lý
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin đặt chúng ta trước những vận hội và thách thức mới. Công nghệ thông tin đã xâm nhập vào tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, làm thay đổi sâu sắc toàn bộ đời sống kinh tế - xã hội của không chỉ một quốc gia mà là của tất cả các nước trên thế giới. Những lợi thế không thể phủ nhận của TMĐT đòi hỏi nền kinh tế các nước trên thế giới trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế phải có sự thích ứng nhanh chóng. Tuy nhiên, do những đặc trưng của TMĐT nên những rủi ro có thể gặp phải trong quá trình giao dịch của TMĐT không thể chỉ được khắc phục bằng các giải pháp mang tính công nghệ, kỹ thuật mà còn cần phải hình thành được khung pháp lý đầy đủ. Kinh nghiệp của các nước đi trước đã cho thấy, để thúc đẩy TMĐT, Nhà nước phải giữ vai trò tiên phong trên cả hai lĩnh vực: cung ứng dịch vụ điện tử và xây dựng hệ thống văn bản đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ TMĐT. Nếu thiếu các quy phạm pháp luật thì các doanh nghiệp, người tiêu dùng buộc phải gánh chịu nhiều rủi ro, thiếu sự an toàn trong giao dịch, làm cho những ưu thế rõ nét về thời gian, về tính tiện lợi, về chi phí của TMĐT sẽ không được phát huy một cách đầy đủ.
Tuy nhiên, một khối lượng lớn đối tượng của TMĐT là các sản phẩm trí tuệ mà đặt biệt là các sản phẩm có thể số hoá (phần mềm máy tính, nhạc phẩm, phim ảnh...). Về mặt kỹ thuật, các chủ thể tham gia có thể nhân bản không hạn chế số lượng của các sản phẩm đó với chất lượng tương đương bản gốc. Đồng thời, nó cũng cho phép các chủ thể tham gia có thể chuyển/gửi không hạn chế số lượng các bản đó đến một số lượng không hạn chế các chủ thể khác trên phạm vi toàn thế giới chỉ trong khoảng thời gian ngắn. Thực tế này đặt ra một thách thức lớn đối với các nhà làm luật, một mặt vừa phải bảo vệ được quyền lợi và khuyến khích đối với chủ sở hữu, người tạo ra sản phẩm trí tuệ; mặt khác phải bảo đảm việc bảo vệ đó không làm ngăn cản sự phát triển của TMĐT. Ngoài ra, TMĐT còn đặt ra nhiều vấn đề pháp lý đối với việc bảo hộ sáng chế, nhãn hiệu thương mại, cạnh tranh...
Sự phát triển nhanh chóng của TMĐT đã làm gia tăng số lượng các vụ tranh chấp phát sinh từ các giao dịch điện tử. Sự gia tăng này đòi hỏi phải có các cơ chế thích hợp để có thể giải quyết các tranh chấp này một cách có hiệu quả về mặt thời gian, chi phí, đồng thời phải phù hợp với các đặc trưng của TMĐT. Tranh chấp phát sinh trong TMĐT nhiều khi diễn ra giữa các chủ thể ở các quốc gia khác nhau và trong nhiều trường hợp hàng hoá trong tranh chấp lại được cung cấp ở một nước thứ ba. Việc lựa chọn luật áp dụng, cũng như địa điểm và cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là vô cùng khó khăn vì điều này động chạm đến các vấn đề phức tạp nhất của luật tư pháp quốc tế như nơi diễn ra giao dịch hay nơi có hàng hoá mà các yếu tố này nhiều khi lại gần như không tồn tại trong TMĐT.
Như vậy, sự phát triển của TMĐT đòi hỏi một môi trường pháp lý linh hoạt tương ứng với những nguyên tắc, chuẩn mực khác với thương mại truyền thống.
Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực
Để phát triển TMĐT cần phải có con người có trình độ tương ứng. Con người cấu thành cơ sở nhân lực của TMĐT trước hết là đội ngũ các chuyên gia tin học, thường xuyên cập nhật các kiến thức của công nghệ thông tin và có khả năng đưa vào ứng dụng trong môi trường và điều kiện kinh doanh cụ thể. Đội ngũ các chuyên gia công nghệ thông tin và kỹ thuật máy tính sẽ tạo ra nền tảng vật chất kỹ thuật cho TMĐT. Đồng thời, các chuyên gia công nghệ thông tin và kỹ thuật máy tính, các nhà kinh doanh, những người quản lý, các chuyên viên, người tiêu dùng cũng phải có khả năng tham gia TMĐT với trình độ nhất định về công nghệ thông tin, về ngoại ngữ và kỹ năng giao tiếp trên mạng. Chính vì vậy, để hạn chế rủi ro khi tham gia vào TMĐT cần đào tạo trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho những người thực hiện TMĐT và tuyên truyền, phổ biến kiến thức cho người tiêu dùng nắm được các đặc điểm kỹ thuật của TMĐT.
Thứ năm, nâng cao nhận thức của xã hội về TMĐT
Phát triển TMĐT cần phải có nhận thức sâu sắc của Nhà nước, các nhà quản lý, các nhà hoạch định chiến lược và toàn xã hội về cơ hội phát triển và những lợi ích mà nó mang lại. Nhà nước phải nhận thức được cơ hội và lợi ích của TMĐT để thiết lập môi trường kinh tế, xã hội và pháp lý cho TMĐT. Các nhà quản lý, các nhà hoạch định chiến lược nhận thức được cơ hội, lợi ích cũng như thách thức của TMĐT để hoạch định chiến lược phát triển và đề ra giải pháp thích hợp. Từ chiến lược và giải pháp đó mà có kế hoạch phát triển hạ tầng công nghệ, có chính sách phát triển. Toàn xã hội nhận thức được cơ hội và lợi ích của TMĐT để tham gia vào hoạt động TMĐT với tư cách là những chủ thể.
Tóm lại, TMĐT đang trở thành phương thức kinh doanh mang lại nhiều lợi ích. Sự phát triển của công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho việc ứng dụng TMĐT vào trong cuộc sống hiện đại. Có thể nói, TMĐT đã trở thành phương thức kinh doanh đại diện cho nền kinh tế tri thức. Xu hướng toàn cầu hoá đã tạo điện kiện thuận lợi để TMĐT có thể phát huy được những thế mạnh của mình như: đẩy nhanh tốc độ của hoạt động kinh doanh, giảm thiểu các chi phí, vượt qua các trở ngại về không gian và thời gian... Tuy nhiên, để có thể thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của TMĐT thì Nhà nước cần nhận thức đầy đủ và sâu sắc vai trò then chốt của mình trong việc tạo lập các điều kiện về cơ chế, về hạ tầng, về pháp luật.... cho sự phát triển của TMĐT./.
----------------------------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. Luật Giao dịch điện tử năm 2005;
2. Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09-6-2006 của Chính phủ về TMĐT;
3. Nghị định số 95/2012/NĐ-CP ngày 12-11-2012 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công Thương;
4. Quyết định số 3151/2010/QĐ-TTg ngày 12-7-2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển TMĐT giai đoạn 2011 – 2015;
5. Lưu Hoàng Hà (2001), Sự cần thiết xây dựng pháp luật TMĐT ở Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu lập pháp tháng 4-2001, tr 68-74;
6. ThS. Bùi Thị Bích Liên (2000), Những vấn đề pháp lý về TMĐT ở Việt Nam, Tạp chí Luật học tháng 12-2000, tr 25-29;
7. TS. Mai Hồng Quỳ (2000), Một số vấn đề pháp lý của TMĐT và việc áp dụng ở Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2-2000, tr 32-41.
Tiếp tục Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII: nhiều vấn đề quan trọng được xem xét, quyết định  (28/05/2013)
Đẩy mạnh hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Ấn Độ  (28/05/2013)
Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh tiếp Đoàn đại biểu nữ cựu chiến binh Trung đoàn 10 tỉnh Cà Mau  (28/05/2013)
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân: Nâng cao hiệu quả hoạt động trong việc thực hiện chính sách xã hội  (28/05/2013)
Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân tiếp GS, VS. Nguyễn Văn Hiệu  (28/05/2013)
Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc tiếp Đặc phái viên Thủ tướng Australia  (28/05/2013)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm