TCCSĐT - Ngày 10-4-2013, tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 17, dưới sự chủ trì của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2011 và Dự án Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật.

Sáng 10-4, dưới sự điều khiển của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận và cho ý kiến về quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2011.

Theo Báo cáo quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2011 của Chính phủ, năm 2011 thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, quyết toán thu chi ngân sách của Nhà nước cơ bản đạt và vượt dự toán được giao. Theo đó, dự toán thu ngân sách nhà nước 595.000 tỷ đồng, quyết toán 721.804 tỷ đồng, tăng 21,3% (126.804 tỷ) so với dự toán. Dự toán chi ngân sách nhà nước 725.600 tỷ đồng, quyết toán 787.554 tỷ đồng, tăng 8,5% (61.954 tỷ đồng) so với dự toán, chủ yếu tăng chi đầu tư phát triển (56.306 tỷ đồng) từ nguồn tăng thu ngân sách và nguồn năm trước chuyển sang. Bội chi ngân sách là 120.600 tỷ đồng, bằng 5,3% GDP. Các khoản thu, chi quản lý qua ngân sách nhà nước là 57.424 tỷ đồng, vay nhà nước về cho vay lại là 28.640 tỷ đồng...

Báo cáo cũng nêu rõ: Thu ngân sách nhà nước năm 2011 thực hiện trong điều kiện tiếp tục phải điều chỉnh giảm thuế theo cam kết hội nhập; thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn nộp thuế để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Nhờ huy động được sức mạnh của của hệ thống chính trị, thực hiện các giải pháp nhằm phấn đấu phục hồi tăng trưởng kinh tế quý sau cao hơn quý trước, đã tác động đến kết quả thu chi năm 2011. Cơ cấu ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển tăng khá (đạt 8,2% GDP, chiếm 26,4% tổng chi ngân sách, tính cả chi từ trái phiếu chính phủ và xổ số kiến thiết, chi đầu tư phát triển đạt 31,3% tổng chi ngân sách nhà nước và đạt 10,4% GDP) góp phần thực hiện nhiệm vụ tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội.

Nhờ tăng thu đã tăng chi đầu tư phát triển, tiếp tục thực hiện cơ chế khuyến khích đối với các vùng kinh tế trọng điểm, tăng đầu tư phát triển kinh tế xã hội, ưu tiên đối với các địa phương miền núi, Tây Nguyên, thực hiện nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, phòng, chống khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh; bổ sung kinh phí quốc phòng an ninh, tăng trả nợ vay từ nguồn tăng thu; dành nguồn gối đầu cho năm 2012 để thực hiện lộ trình cải cách tiền lương; giảm bội chi so với Quốc hội cho phép cả về số tuyệt đối và tỷ lệ phần trăm trên GDP, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh tài chính quốc gia.

Tuy vậy, hiệu quả đầu tư chưa cao, chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế chưa bền vững... cùng với những tồn tại trong quản lý thực hiện ngân sách nhà nước ở một số đơn vị, địa phương là khó khăn đối với các năm tới, từ đó đòi hỏi phải có những biện pháp hiệu quả, sự nỗ lực của các ngành, các cấp để tạo sự chuyển biến quan trọng thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội những năm sau.

Chính phủ trình Quốc hội xem xét phê chuẩn quyết toán thu, chi ngân sách nhà nước với tổng số thu cân đối ngân sách Nhà nước là 962.982 tỷ đồng (bao gồm cả nguồn năm 2010 chuyển sang 2011, thu kết dư ngân sách địa phương, thu hồi ngân sách cho vay, thu huy động đầu tư của ngân sách địa phương theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước). Tổng số chi cân đối ngân sách Nhà nước là 1.034.244 tỷ đồng (bao gồm cả nguồn từ năm 2011 chuyển sang 2012). Bội chi ngân sách nhà nước 112.034 tỷ đồng, bằng 4,4% GDP (không bao gồm kết dư ngân sách địa phương 40.772 tỷ đồng).

Theo báo cáo kiểm toán quyết toán ngân sách Nhà nước cho thấy, năm 2012, Kiểm toán Nhà nước đã tập trung nguồn lực và nhân lực để đi sâu đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả, hiệu lực của công tác quản lý ngân sách, tiền và tài sản nhà nước niên độ ngân sách 2011 tại khá nhiều địa phương, đơn vị, trong đó đã cố gắng thực hiện 18 cuộc kiểm toán chuyên đề trên các lĩnh vực đang được xã hội và dư luận quan tâm. Thông qua hoạt động kiểm toán, nhiều sai phạm trong quản lý, sử dụng ngân sách và tài sản Nhà nước được phát hiện để kịp thời xử lý, chấn chỉnh, cung cấp thông tin và hỗ trợ cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp phê duyệt quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2011.

Kết quả thực hiện kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước đối với niên độ ngân sách nhà nước 2010 đã được hầu hết các đơn vị được kiểm toán triển khai thực hiện khá nghiêm túc, tuy nhiên, kết quả thực hiện chưa cao. Đến 31-1-/2012 mới đạt 71,62% tổng số kiến nghị xử lý về tài chính, trong đó sai phạm trong chi đầu tư xây dựng cơ bản chiếm tỷ lệ khá lớn trong tổng số kiến nghị xử lý tài chính, nhưng thực tế tỷ lệ thực hiện kiến nghị lại thấp nhất (chỉ đạt 50,9%). Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Chính phủ cần làm rõ nguyên nhân việc thực hiện kiến nghị chậm trễ, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản từ đó có giải pháp thích hợp để xử lý, chống thất thoát, lãng phí.

Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận định báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước năm 2011 của Chính phủ đã được tổng hợp từ quyết toán ngân sách của 63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, đã được hội đồng nhân dân phê chuẩn và quyết toán của các bộ, ngành, cơ quan trung ương, phản ánh cơ bản chính xác số thực thu, thực chi thông qua việc đối chiếu có xác nhận của Kho bạc Nhà nước; đã xem xét, tiếp thu kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ và Thanh tra Tài chính.

Các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng, công tác quyết toán ngân sách Nhà nước năm 2011 về cơ bản đã bảo đảm quy trình, thủ tục, nguyên tắc theo quy định của pháp luật, đủ căn cứ để trình ra Quốc hội xem xét, phê chuẩn tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa XIII. Nhưng các đại biểu cũng đề nghị Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội tiếp thu ý kiến của Thường vụ Quốc hội, đổi mới cách thức trình bày báo cáo; sớm hoàn thành báo cáo phân tích tình hình thực tế, đánh giá được những tồn tại, hạn chế, yếu kém; đưa ra các giải pháp, địa chỉ sai phạm cụ thể để có lộ trình xử lý tốt hơn...

*** Buổi chiều, tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 17, dưới sự chủ trì của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Thị Kim Ngân, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến lần đầu về Dự án Luật Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật.

Theo Tờ trình của Chính phủ, Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật được Ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá X thông qua ngày 25-7-2001 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2002, thay thế Pháp lệnh Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật năm 1993.

Sau 10 năm thi hành, Pháp lệnh đã góp phần quan trọng, tạo cơ sở pháp lý trong việc phòng trừ sâu bệnh, ngăn chặn kịp thời dịch hại, bảo vệ an toàn sản xuất nông nghiệp; tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước về công tác bảo vệ thực vật, kiểm dịch thực vật và quản lý thuốc bảo vệ thực vật; góp phần ổn định và phát triển sản xuất nông nghiệp bền vững, bảo đảm an ninh lương thực, nâng cao đời sống nhân dân và thúc đẩy xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp của nước ta.

Tuy nhiên, sau 10 năm thực thi, Pháp lệnh năm 2001 đã bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của hoạt động quản lý Nhà nước trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Các quy định của Pháp lệnh chỉ mang tính cụ thể trước mắt, chưa xác lập những quy định pháp luật với tầm nhìn chiến lược cho một giai đoạn phát triển mới.

Qua thảo luận, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật như Tờ trình của Chính phủ, đồng thời nhấn mạnh việc ban hành Luật còn nhằm thể hiện rõ quan điểm đổi mới của Đảng và Nhà nước trong công tác Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật, phục vụ cho việc xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện theo hướng hiện đại, bền vững, sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao, góp phần bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững kinh tế - xã hội.

Các ý kiến đều cho rằng nội dung Dự thảo Luật đã bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất với hệ thống pháp luật Việt Nam và tính tương thích với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Tuy nhiên, trong Dự thảo Luật, quy định về thẩm quyền của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tạm ngừng hoặc cấm nhập khẩu, xuất khẩu hoặc cho phép tiếp tục xuất khẩu, nhập khẩu vật thể thuộc diện kiểm dịch thực vật tại Khoản 3 Điều 35 là chưa thống nhất với Luật Thương mại. Dự thảo Luật không quy định về Danh mục thuốc bảo vệ thực vật hạn chế sử dụng là chưa thống nhất với quy định của Luật Hóa chất, các ý kiến đề nghị Ban soạn thảo giải trình rõ về vấn đề nêu trên.

Về đối tượng điều chỉnh của Dự án Luật, đa số các ý kiến tán thành với đối tượng điều chỉnh của dự thảo Luật là thực vật. Tuy nhiên, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Ban soạn thảo cần làm rõ khái niệm “thực vật” và khái niệm “tài nguyên thực vật”, đồng thời bổ sung giải thích khái niệm “thực vật” vào Điều 3 về giải thích từ ngữ.

Liên quan đến trách nhiệm quản lý Nhà nước về Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật, nhiều ý kiến đề nghị làm rõ trách nhiệm của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trong quản lý nhà nước về Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật; trách nhiệm phối hợp của các bộ, cơ quan ngang bộ với Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và phân định rõ trách nhiệm quản lý nhà nước giữa ủy ban nhân dân cấp tỉnh, huyện và cấp xã trong việc quản lý Nhà nước về Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật.

Về thẩm quyền công bố dịch, nhiều ý kiến cho rằng thẩm quyền công bố dịch giao cho Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước về Bảo vệ và Kiểm dịch thực vật ở nước ta nhằm tăng cường tính chủ động của chính quyền địa phương để huy động kịp thời nguồn lực trong việc chống dịch. Tuy nhiên, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội đề nghị Ban soạn thảo cần làm rõ thẩm quyền công bố dịch trong trường hợp dịch bệnh thuộc diện quy định tại Điểm a, Khoản 1 xảy ra đồng thời ở nhiều tỉnh không liền kề.

Tại Phiên họp, các thành viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng dành nhiều thời gian thảo luận về về kiểm dịch thực vật; về quản lý thuốc bảo vệ thực vật; xử lý thuốc bảo vệ thực vật bị thu hồi, tiêu hủy, thu gom và xử lý thuốc bảo vệ thực vật sau sử dụng./.