B-52 trên bầu trời Hà Nội cách đây 40 năm

Nguyễn Nhâm
17:04, ngày 18-12-2012
TCCSĐT - Nhiệm vụ chính của các tốp B-52 trong những ngày đầu là tiêu diệt các mục tiêu chiến lược của miền Bắc như sân bay, kho quân sự... Tuy nhiên, đây lại là sai lầm nghiêm trọng với các tướng lĩnh của Bộ Chỉ huy Không quân chiến lược Mỹ (SAC).

Đáng ra theo thế trận, ưu tiên của các trận không kích phải là tiêu diệt được vũ khí phòng không lợi hại của Hà Nội, sau đó mới tính đến các mục tiêu khác. Sai lầm này đã không được các sĩ quan chỉ huy chiến dịch Linebacker phát hiện ra kể từ đêm 18 đến 25-12-1972. Đến ngày 26-12, khi số B-52 bị bắn hạ đã ở mức không thể chấp nhận được thì SAC mới phát hiện được điều này và điều chỉnh mục tiêu chính của các tốp B-52 là các trận địa SAM của Việt Nam. Tuy nhiên, sự điều chỉnh này đã quá muộn màng bởi lúc đó Việt Nam cũng đã bố trí lại thế trận, tăng cường các đơn vị pháo cao xạ để bảo vệ bằng được các trận địa tên lửa và các phi công B-52 của Mỹ cũng không còn đủ can đảm để bay vào Hà Nội tìm diệt các trận địa SAM.

Từ nguy cơ B-52 bị “diệt chủng”…

Lúc 18 giờ 30 phút ngày 18-12-1972, 67 chiếc B-52 được khoảng 100 máy bay chiến thuật hộ tống xuất kích từ đảo Gu-am, bay theo thế trận “hành khúc chân voi” trên một vùng trời dài khoảng 100 km, đội hình máy bay chuyển hướng bay dọc sông Mê Công lên phía Bắc để vào Hà Nội. Đến 19 giờ 40 phút, B-52 Mỹ đã bắt đầu trút hàng tấn bom xuống Hà Nội. Theo tài liệu thống kê, trong đêm 18-12-1972, Mỹ đã huy động 90 lượt máy bay B-52 và 135 lượt máy bay chiến thuật đánh liên tiếp vào các sân bay xung quanh Hà Nội và một số khu vực trọng yếu khác. Đồng thời, Mỹ đã huy động 28 lượt máy bay hải quân đánh phá Hải Phòng.

Mặc dù sức mạnh của Không quân Mỹ được cho là “vô song”, nhưng Quân đội Việt Nam đã tổ chức đánh B-52 một cách bài bản với lực lượng không quân đánh chặn vòng ngoài, pháo cao xạ và lưới lửa tự vệ đánh dạt các lớp máy bay chiến thuật tạo điều kiện để ra-đa, tên lửa tìm diệt B-52. Vào lúc 20 giờ 13 phút, chiếc máy bay B-52 đầu tiên đã bị bắn rơi tại xã Phù Lỗ (huyện Đông Anh, Hà Nội). Lúc 4 giờ 39 phát, ngày 19-12-1972, chiếc B-52 thứ hai bị bắn rơi. Cùng ngày, một chiếc B-52 khác đang trên đường về căn cứ U-ta-pao/Thái Lan tiếp tục bị bắn rơi. Sau hai ngày đầu tiến công Hà Nội, Mỹ bị thiệt hại 5 chiếc B-52.

Đêm 20-12-1972, lực lượng Phòng không - Không quân Việt Nam đã có những kinh nghiệm nhất định sau 2 đêm chiến đấu. Nhờ thế mà bộ đội ta đã có những hoạt động đáp trả bài bản hơn như việc xuất kích đánh vào đội hình máy bay chiến thuật của Mỹ, tạo điều kiện cho lực lượng tên lửa tiêu diệt B-52 và đã trở thành một đêm kinh hoàng với các phi công B-52 Mỹ. Kết quả là 6 chiếc B-52 bị bắn rơi, 12 phi công Mỹ bị bắt sống. Chỉ trong 4 ngày đầu, Mỹ đã bị thiệt hại 12 máy bay B-52, điều này đã khiến chiến dịch Linebacker II phải kéo dài thêm 3 ngày so với kế hoạch ban đầu của Mỹ.

Từ đêm 22-12, sau khi kế hoạch không kích Hà Nội, Hải Phòng được điều chỉnh, tần suất và cường độ tiến công của máy bay B-52 và máy bay chiến thuật Mỹ có dấu hiệu giảm sút. Lý do là các phi công B-52 đã tìm mọi cách lảng tránh Hà Nội sau khi nếm trải sức kháng cự mãnh liệt của quân dân Việt Nam. Theo các cựu quân nhân Mỹ từng đóng quân ở căn cứ Óp-phút (Offut)/Nê-bra-xka (Nebraska) cho biết: Nếu các phi công Mỹ không lo sợ trước sự đáp trả của Việt Nam mà vẫn cứ thực hiện theo mệnh lệnh thì chỉ sau 2 tuần lễ, toàn bộ số B-52 của Không quân Mỹ bị “diệt chủng”.

Đến đêm 21-12, số lượt B-52 tiến công Hà Nội đã giảm sút, mỗi đêm chỉ đánh 1 lượt với mỗi đợt từ 24 đến 33 máy bay B-52. Đêm 24-12, một chiếc máy bay B-52 nữa bị bắn rơi, nâng số máy bay B-52 bị bắn hạ trong 6 ngày đầu là 17 chiếc, 5 máy bay F-111 và 24 máy bay khác. Đêm 26-12, sau khi điều chỉnh lại chiến thuật tiến công, Mỹ tổ chức một đợt không kích rầm rộ không kém đêm đầu tiên với 129 máy bay B-52, đánh dồn dập mỗi mục tiêu từ 3 hướng khác nhau. Đây là trận quyết chiến quyết định số phận của chiến dịch Linebacker II. Bom Mỹ đã hủy diệt một số khu phố Hà Nội và Bệnh viện Bạch Mai... Tuy nhiên, Mỹ đã phải trả giá đắt với 18 máy bay bị bắn hạ, trong đó có 8 chiếc B-52. Sau đó, hằng đêm Mỹ tổ chức khoảng 50 lượt B-52 không kích Hà Nội. Trong các ngày 27, 28 và 29-12-1972, quân ta lại bắn rơi thêm 7 máy bay B-52.

Vào lúc 7 giờ ngày 30-12-1972, Chính phủ Mỹ tuyên bố ngừng ném bom từ Bắc vĩ tuyến 20 trở ra và đề nghị gặp lại đại diện của Chính phủ Việt Nam tại Pa-ri (Pháp) để bàn tiếp việc ký Hiệp định. Trong 12 ngày đêm của chiến dịch Linebacker II, Mỹ đã đưa 663 lượt B-52 tiến công miền Bắc, khoảng 3.920 lượt máy bay chiến thuật và rải khoảng 10 vạn tấn bom toàn miền (riêng Hà Nội chịu khoảng 4 vạn tấn). Kết thúc trận “Điện Biên Phủ trên không”, bộ đội ta đã tiêu diệt được 81 máy bay, trong đó có 34 chiếc B-52, 5 chiếc F-111, bắt được 43 phi công Mỹ (trong đó có 33 phi công lái B-52). Sau này, trong một chuyến đến thăm Bảo tàng lịch sử Việt Nam tại Hà Nội vào năm 1973, cựu Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ ông Kít-sinh-gơ (Kissinger) đã nhận xét: “Đây chính là Điều 1 của Hiệp định Pa-ri”.

… đến chiến thuật “điểm chết”

Theo chiến thuật của SAC trong chiến dịch này, đội hình B-52 được bố trí theo tốp 3 chiếc hình tam giác, 1 chiếc đi đầu, hai chiếc đi sau, bay so le cách chiếc đi đầu và cách nhau 2,4 km. Cách bố trí này tạo ra sức hủy diệt lớn của bom B-52 khi cả tốp cùng oanh tạc vào một mục tiêu. Tuy nhiên, việc bố trí này lại khiến đối phương phán đoán được hướng của các chiếc còn lại trong tốp sau khi đã phát hiện ra chiếc đi đầu để bố trí tên lửa SAM tiến công, hoặc kịp trú ẩn trước khi bom của cả tốp B-52 trùm lên mục tiêu. Trước khi ném bom, các hệ thống gây nhiễu được kích hoạt. Cả tốp sẽ bẻ một góc 90 độ bỏ chạy sau khi thả bom xong. Do vậy, các đơn vị SAM của Việt Nam sau khi phát hiện được vị trí của chiếc B-52 đầu tiên đã theo dõi sát điểm ngoặt 90 độ này, tính toán để phóng lên một tên lửa ngay “điểm chết” này khi chiếc B-52 đầu tiên cũng vừa lao tới.

Trong thời gian này, các hoạt động xuất kích của tốp B-52 luôn phải tuân theo một lộ trình bay cố định. Nếu mục tiêu được lệnh oanh tạc nhiều lần thì các tốp B-52 sẽ lần lượt bay đến mục tiêu theo cùng một hướng, cùng độ cao rồi thả bom. Đây chính là sơ hở chết người của các sĩ quan chỉ huy SAC khiến cho viên Đại úy Không quân Xnây-đơn-man (Schneidenman) đã phẫn nộ kêu lên trong cuộc họp triển khai chiến dịch Linebacker II (17-12-1972) rằng: “Rõ ràng là chúng ta đã xuất phát theo những hướng bay, độ cao cố định và điều này không khác gì với cảnh lính Anh ra trận trong Thế chiến I - đi đều, quỳ và bắn theo hàng”. Tuy nhiên, thực tế của chiến dịch Linebacker vẫn diễn ra đúng như kế hoạch của SAC. Tối 18-12-1972, theo kế hoạch, Mỹ sử dụng các máy bay B-52 từ đảo Gu-am để tiến công Hà Nội theo 3 đợt, mỗi đợt cách nhau 4 giờ. Thực hiện kế hoạch này, trong đợt không kích đầu tiên, các máy bay F-111 bay vào miền Bắc ở tầm bay thấp với tốc độ siêu âm để tiến công các sân bay. Các máy bay F-4 bay trước để rải nhiễu kim loại chống ra-đa của Việt Nam, tiếp theo là các tốp B-52, rồi hơn 100 chiếc F-4 có nhiệm vụ đánh chặn MiG của Không quân Việt Nam để bảo vệ B-52.

Các tốp B-52 được bố trí bay qua mỗi mục tiêu từ 2-3 phút trên cùng một đường bay, cùng một tốc độ và độ cao giống nhau. Khi tốp đầu tiên xâm nhập vùng trời Hà Nội, nhiều tên lửa SAM bắn lên đã không trúng mục tiêu. Đến đêm 20-12, các phi công Mỹ đã ngạc nhiên khi thấy một số máy bay MiG của Việt Nam chỉ bay lên nhưng không gây rối hoặc tiến công mà không hề biết rằng các phi công MiG chỉ có nhiệm vụ ghi nhận các số liệu về hướng bay, tốc độ và độ cao của các tốp B-52 để báo cáo về cho các trận địa SAM. Cuối cùng, Mỹ mất thêm 6 chiếc B-52 trong đêm đó.

Và lời nhận xét mang tính kỹ thuật

Đại tá, Tiến sỹ A-lếch-san-đơ Man-gin (Alexcander Malgin), Giáo sư Viện Hàn lâm quân sự, giảng viên Viện Khoa học Phòng thủ Hàng không Vũ trụ Liên bang Nga và Đại tá, Tiến sỹ Mi-khai-in Man-gin (Mikhain Malgin), Chuyên viên nghiên cứu khoa học Viện Nghiên cứu Khoa học Quân sự Bộ Quốc phòng Liên bang Nga đánh giá:

- Cuộc không kích đã bị lực lượng Phòng không Việt Nam đáp trả xứng đáng với những tội ác mà Mỹ gây nên. Chuyên gia Nga đã đưa ra những thông số mang tính kỹ chiến thuật đối với lực lượng Không quân Mỹ và lực lượng Phòng không Việt Nam trong một giai đoạn vô cùng căng thẳng của chiến tranh Việt Nam - năm 1972. Trong đó, từ ngày 3-9-1972, biên chế tác chiến của lực lượng Không quân Mỹ khu vực Đông Nam Á đã được tăng cường lên 3 lần, lực lượng Không quân Hải quân được tăng cường gấp 1,5 lần. Cũng từ tháng 3-1972, lực lượng Không quân Mỹ đã tăng cường tần xuất không kích các mục tiêu kể cả mục tiêu dân sự trên địa bàn miền Bắc Việt Nam. Sau tuyên bố của Tổng thống Mỹ Ních-xơn về việc đưa Hà Nội trở về thời kỳ đồ đá, tần suất không kích của lực lượng không quân chiến lược và chiến thuật đã tăng lên đáng kể với sự tham gia của 207 máy bay ném bom chiến lược B-52 và hơn 2.000 máy bay cường kích đánh chặn của không quân và hải quân Mỹ. Mật độ không kích cao nhất là từ ngày 18 đến ngày 30-12-1972.

- Hiệu quả tác chiến 0,5%. Năm 1972, lực lượng Phòng không Việt Nam, thực hiện các nhiệm vụ tác chiến chủ yếu ở 3 khu vực chính là Hà Nội, Hải Phòng, Duyên hải và Quân khu 4. Trong giai đoạn đó, trên các trận địa phòng không có khoảng từ 30 đến 36 tiểu đoàn tên lửa phòng không S-75. Nếu tính toán hệ số sẵn sàng chiến đấu thì các tiểu đoàn tên lửa phòng không có hệ số là 0,6 - 0,7. Khả năng phóng đạn đánh chặn các đợt không kích sẽ là khoảng 22 - 25 tiểu đoàn. Trên các bệ phóng tên lửa của các phân đội sẵn sàng từ 10 - 12 tên lửa. Các tên lửa còn lại tập trung tại các điểm cách xa bệ phóng, nạp nhiên liệu và chuẩn bị kỹ thuật. Với tần suất hoạt động của không quân Mỹ ở mức trung bình. Hệ thống tên lửa phòng không Việt Nam phóng đạn 55 lần và bắn hạ 23 máy bay. Bình quân 4 tên lửa cho 1 máy bay, hiệu quả phóng đạn là 0,5.

Bốn mươi năm đã trôi qua, lời nhận xét của cựu Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Kít-sinh-gơ và lời than phiền của các cựu quân nhân Mỹ từng đóng quân ở căn cứ không quân Óp-phút  (Offut)/Nê-bra-xka (Nebraska) ngày nào vẫn được các chiến lược gia quân sự và dư luận nhắc đến./.