Tiếp tục chương trình Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII
Mở đầu phiên họp, Bộ trưởng Bộ Khoa học và công nghệ Nguyễn Quân, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật Khoa học và công nghệ (sửa đổi).
Theo Tờ trình, dự thảo Luật Khoa học và Công nghệ (KH&CN) (sửa đổi) gồm 80 điều, được chia thành 8 chương (bỏ 17/59 điều, sửa đổi 42/59 điều của Luật KH&CN hiện hành, đồng thời bổ sung 38 điều mới).
Theo Bộ trưởng Bộ KH&CN Nguyễn Quân, Luật KH&CN hiện hành được ban hành cách đây 12 năm. Khi đó, Việt Nam chưa phải là thành viên của WTO, chưa hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế quốc tế, chưa vượt qua ngưỡng của một nước kém phát triển và chưa có hệ thống luật pháp đồng bộ về KH&CN. Từ đó đến nay, hệ thống văn bản pháp luật đã được sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện rất căn bản. Quốc hội đã ban hành nhiều luật về các lĩnh vực KH&CN chuyên ngành. Luật KH&CN hiện hành đã bộc lộ một số bất cập về nội dung cũng như hình thức văn bản. Có nhiều quy định không còn phù hợp với thực tiễn và hệ thống pháp luật hiện hành; nhiều điều, khoản quy định còn chung chung, hiệu lực thực thi pháp luật thấp. Vì vậy, Luật KH&CN cần được sửa đổi, bổ sung để tạo ra sự thống nhất, đồng bộ của các văn bản pháp luật về KH&CN; bảo đảm tính phù hợp cả về nội dung cũng như hình thức văn bản và được cập nhật để đáp ứng quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế...
Thẩm tra Báo cáo dự thảo Luật, Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng nêu rõ, Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường nhất trí với những căn cứ khẳng định về sự cần thiết sửa đổi Luật KH&CN (năm 2000) như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ và nhấn mạnh thêm, việc sửa đổi Luật KH&CN lần này còn nhằm đáp ứng đòi hỏi của quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu dựa vào việc áp dụng các thành tựu KH&CN.
Thẩm tra về cơ chế tài chính và tín dụng cho hoạt động khoa học và công nghệ, Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường nhất trí cho rằng, một trong những vướng mắc lớn, điểm tắc nghẽn chủ yếu trong hoạt động KH&CN hiện nay chính là cơ chế tài chính. Vì vậy, việc đổi mới cơ bản cơ chế tài chính trong hoạt động KH&CN cho phù hợp với đặc thù của hoạt động KH&CN là rất cần thiết và cần phải khẳng định cơ chế đổi mới này ngay trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao là Luật KH&CN (sửa đổi). Tuy nhiên, việc thay đổi cơ chế tài chính có liên quan đến các văn bản pháp luật về tài chính, trong đó có Luật Ngân sách nhà nước (đang được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung). Do đó, đề nghị Chính phủ, Quốc hội cho phép quy định có tính đột phá, đổi mới cơ chế tài chính cho KH&CN theo những quan điểm mới trong Đề án “Phát triển KH&CN phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” trình Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 6; đồng thời, đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu kỹ về vấn đề này và có đề xuất cụ thể, để vừa bảo đảm tính tương thích với hệ thống pháp luật, nhưng thể hiện rõ cơ chế đặc thù cho lĩnh vực KH&CN được coi là quốc sách.
Chủ nhiệm Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội Phan Xuân Dũng cho biết, hiện có nhiều ý kiến cho rằng, dự thảo Luật cần có các quy định cụ thể hơn để buộc doanh nghiệp (tùy loại hình và quy mô doanh nghiệp) dành tỷ lệ thích hợp lợi nhuận trước thuế cho hoạt động KH&CN hoặc hình thành quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp; đồng thời, quy định cơ chế phù hợp tạo sự chủ động cho doanh nghiệp trong việc sử dụng nguồn kinh phí này. Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu tiếp thu các ý kiến nêu trên.
Về các vấn đề liên quan đến đổi mới cơ chế tài chính và tín dụng cho hoạt động KH&CN, Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường cho rằng, duy trì ngân sách cho KH&CN ở mức 2% như quy định tại khoản 1 Điều 53 là hợp lý, nhưng đề nghị cần tập trung đổi mới quản lý để phân bổ, sử dụng ngân sách hiệu quả hơn...
Nhìn chung, dự án Luật đã được chuẩn bị nghiêm túc, tích cực, đã tiếp thu nhiều ý kiến đóng góp cho dự thảo Luật. Đề nghị Ban soạn thảo chuẩn bị bản tiếp thu, giải trình bổ sung trên cơ sở các ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và ý kiến của Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường nêu trong bản thẩm tra này gửi đại biểu Quốc hội trước khi thảo luận. Sau Kỳ họp thứ 4 của Quốc hội, Ủy ban Khoa học, công nghệ và môi trường sẽ phối hợp chặt chẽ với Ban soạn thảo và các cơ quan có liên quan để tiếp tục hoàn thiện dự án Luật cũng như chỉnh sửa về kỹ thuật lập pháp trình Quốc hội xem xét, thông qua.
Ngay sau đó, Quốc hội đã nghe Bộ trưởng Bộ Tài chính Vương Đình Huệ, thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ trình bày Tờ trình dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân; Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội Phùng Quốc Hiển trình bày báo cáo thẩm tra dự án.
Theo tờ trình, dự thảo Luật thuế thu nhập cá nhân quy định nâng mức giảm trừ gia cảnh cho bản thân người nộp thuế từ 4 triệu đồng/tháng lên mức 9 triệu đồng/tháng; mức giảm trừ cho mỗi người phụ thuộc từ 1,6 triệu đồng/tháng lên mức 3,6 triệu đồng/tháng. Đồng thời bổ sung quy định khi giá thị trường biến động trên 20% thì Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh.
Ủy ban Tài chính - Ngân sách Quốc hội cho biết sau hơn ba năm thực hiện Luật thuế thu nhập cá nhân, cùng với quá trình vận hành, biến động của tình hình kinh tế - xã hội, một số quy định của Luật đã bộc lộ hạn chế là không còn phù hợp với tình hình mới, nhất là mức động viên từ thu nhập của người dân, chưa bao quát hết những vấn đề phát sinh trên thực tế, một số quy định về thủ tục chưa tạo thuận lợi cho người nộp thuế. Vì vậy, Ủy ban Tài chính - Ngân sách tán thành về sự cần thiết sửa đổi Luật nhằm kịp thời khắc phục hạn chế, xác lập khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh, đồng bộ, tạo thuận lợi cho quá trình thực thi. Đa số ý kiến trong Ủy ban tán thành với mức giảm trừ gia cảnh như quy định của Dự thảo luật nhằm bảo đảm phù hợp hơn với diễn biến chỉ số CPI và sức mua của tiền đồng; đáp ứng tốc độ tăng trưởng GDP đến năm 2014 và những năm tiếp theo; giảm tỷ lệ động viên thuế, phí trên GDP; tăng cường nguồn lực cho chi phí ngày một cao đối với y tế, giáo dục, văn hóa; góp phần kích cầu, khuyến khích tiêu dùng; thực hiện chính sách nuôi dưỡng nguồn thu.
Tuy nhiên, việc nâng mức giảm trừ gia cảnh lên như quy định trong Dự thảo luật sẽ dẫn đến một số hệ quả như việc nâng mức giảm trừ gia cảnh sẽ làm thay đổi mục tiêu ban đầu của Luật thuế thu nhập cá nhân đã được Quốc hội khóa XII thông qua là “số người nộp thuế từng bước được tăng lên, ngày càng nhiều người có thu nhập từ mức trung bình trở lên trong xã hội có cơ hội làm quen dần với sắc thuế này và thực hiện nghĩa vụ của mình đối với đất nước, góp phần ổn định nguồn thu ngân sách nhà nước."
Các ý kiến của Ủy ban Tài chính - Ngân sách tán thành với quy định của Dự thảo luật về việc giao Ủy ban Thường vụ quốc hội điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh nhằm bảo đảm phù hợp về thẩm quyền quyết định chính sách thuế theo đúng quy định của Luật tổ chức Quốc hội song vẫn đáp ứng yêu cầu linh hoạt trong xử lý các tình huống bất thường.
Về thu nhập chịu thuế và thu nhập không chịu thuế, Ủy ban Tài chính - Ngân sách cho rằng, cần thiết phải thu thuế đối với thu nhập từ đầu tư chứng khoán vì về nguyên tắc, có thu nhập từ đầu tư thì phải thực hiện nghĩa vụ thuế bình đẳng như mọi khoản thu nhập khác song việc nộp thuế thu nhập cá nhân từ đầu tư chứng khoán phải đúng bản chất là có thu nhập mới tính thuế.
Đối với thời điểm Luật có hiệu lực thi hành, đa số ý kiến tán thành với đề xuất của Chính phủ về thời điểm có hiệu lực thi hành của Luật (từ 01-07-2013) nhằm bảo đảm thời gian cần thiết để Chính phủ triển khai xây dựng, ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật.
Cũng trong phiên làm việc sáng nay, Chính phủ đã trình Quốc hội dự án Luật Thủ đô. Tuy nhiên, còn có ý kiến khác nhau về 4 vấn đề, trong đó có vấn về việc người muốn nhập cư phải tạm trú liên tục tại chỗ ở đó từ đủ 03 năm trở lên; mua được nhà hoặc nhà thuê diện tích mặt sàn tối thiểu 5m2/người...
Trình bày dự án Luật Thủ đô, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho biết, dự án Luật Thủ đô trình Quốc hội khoá XII đã được chuẩn bị từ năm 2009 theo đúng trình tự, thủ tục và yêu cầu của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật, đã được Ủy ban Pháp luật của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội tán thành trình Quốc hội xem xét, thông qua. Tuy nhiên, dự án Luật đã không được Quốc hội khóa XII thông qua.
Trong quá trình xây dựng dự án Luật Thủ đô (mới) để trình tại Kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII, các ý kiến của Hội đồng thẩm định, thành viên Chính phủ; ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Pháp luật và các cơ quan của Quốc hội cơ bản nhất trí về các nội dung của dự án Luật.
Bộ trưởng cho biết, hiện có 2 loại ý kiến về quản lý dân cư Thủ đô. Loại ý kiến thứ nhất cho rằng để góp phần hạn chế tình trạng quá tải, tăng dân số cơ học ở nội thành, cần áp dụng một số biện pháp hành chính về đăng ký thường trú tại nội thành Hà Nội chặt chẽ hơn so với Luật Cư trú hiện hành.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị không quy định hạn chế đăng ký thường trú ở nội thành vì có thể ảnh hưởng đến quyền tự do cư trú của công dân.
Về vấn đề này, Chính phủ cho rằng, để kiểm soát dân cư trong nội thành Hà Nội một cách phù hợp thì cần phải áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp, đặc biệt là các giải pháp về kinh tế - xã hội, quy hoạch (chẳng hạn như quy định khoản 2 Điều 19 dự thảo Luật). Kiểm soát dân cư ở nội thành bằng biện pháp hành chính tuy chưa phải giải pháp tối ưu, nhưng cần thiết để bảo đảm quy mô, mật độ dân cư theo Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô.
Cơ quan soạn thảo luật Thủ đô đưa ra 2 phương án trong đó phương án 1 ít hạn chế hơn và phương án 2 đưa ra điều kiện cao hơn.
Cụ thể, phương án 1 quy định công dân không thuộc các trường hợp như vợ về ở với chồng, con về ở với cha mẹ,... thì được đăng ký thường trú ở nội thành, nếu có nhà ở thuộc sở hữu của mình hoặc nhà thuê ở nội thành của tổ chức, cá nhân có đăng ký kinh doanh nhà ở và đã tạm trú liên tục tại chỗ ở đó từ đủ 3 năm trở lên; nơi đề nghị đăng ký thường trú phải là nơi đang tạm trú.
Phương án 2 bổ sung thêm nội dung “trường hợp nhà ở do thuê thì phải bảo đảm diện tích mặt sàn tối thiểu là 5m2/người”. Chính phủ cho biết sơ bộ tính toán cho thấy nếu theo phương án 1 thì khi Luật Thủ đô có hiệu lực, mỗi năm số người đăng ký thường trú vào nội thành sẽ giảm khoảng 28% (14.000/50.000 người); còn theo phương án 2 thì giảm khoảng 38% (19.100/50.000 người).
Thẩm tra báo cáo về dự án Luật trên, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý cho biết, thực tế tình trạng gia tăng dân số cơ học ở Thủ đô hiện nay là một trong những nguyên nhân gây ra tình trạng quá tải đối với hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng kỹ thuật, tạo nên những áp lực về giao thông, trường học, chỗ ở, y tế, việc làm… Việc quy định điều kiện đăng ký nhập hộ khẩu vào nội thành Hà Nội chặt chẽ hơn đối với một số đối tượng tuy chưa phải là giải pháp tối ưu để quản lý dân cư nhưng cũng là một trong những giải pháp cần thiết kết hợp với các giải pháp khác nhằm giãn bớt số lượng dân cư thường trú trong nội thành. Do đó, nhiều ý kiến thành viên Ủy ban Pháp luật tán thành với Phương án 1 quy định về điều kiện đăng ký thường trú (nhập hộ khẩu) của công dân ở nội thành Hà Nội như quy định tại khoản 4 Điều 19 của dự thảo Luật. Có một số thành viên Ủy ban Pháp luật tán thành với Phương án 2, vì cho rằng phương án này cụ thể, chặt chẽ hơn.
Tuy nhiên, về lâu dài cần phải có các giải pháp tổng thể, đồng bộ về kinh tế - xã hội, quy hoạch, như chuyển một số cơ sở sản xuất công nghiệp, bệnh viện, cơ sở giáo dục đại học, cơ quan, tổ chức ra khỏi nội thành; hạn chế việc xây dựng các chung cư cao tầng trong nội thành, xây dựng tuyến đường giao thông thuận lợi kết nối nội thành với ngoại thành và các vùng phụ cận... thì mới có thể giải quyết được tận gốc vấn đề này.
Về việc quy định mức thu phí cao hơn, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường chia sẻ, vấn đề này cũng vẫn còn hai loại ý kiến khác nhau. Loại ý kiến thứ nhất, đồng ý việc HĐND thành phố Hà Nội được “Quy định mức thu phí ở nội thành cao hơn, nhưng không quá 02 lần so với mức thu do Chính phủ và Bộ Tài chính quy định đối với một số khoản thu phí thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân thành phố trong lĩnh vực giao thông vận tải”.
Loại ý kiến thứ hai đề nghị không nên quy định thu phí cao hơn ở nội thành trong lĩnh vực giao thông vận tải vì tăng phí chưa phải là giải pháp tối ưu để hạn chế việc sử dụng phương tiện giao thông cá nhân.
Thẩm tra về vấn đề trên, nhiều ý kiến trong Ủy ban Pháp luật tán thành với quy định này của dự thảo Luật và cho rằng so với các địa phương khác thì tại thành phố Hà Nội có tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh, mật độ dân cư, lưu lượng người tham gia giao thông tăng nhanh trong khi hệ thống kết cấu hạ tầng còn nhiều bất cập. Đây là một trong những nguyên nhân chính gây ra ách tắc, mất trật tự trong giao thông, sự xuống cấp của cơ sở hạ tầng, cảnh quan đô thị, ô nhiễm môi trường ...
Trong bối cảnh như vậy, cần cho phép Hà Nội quy định mức phí cao hơn trong lĩnh vực giao thông vận tải nhằm góp phần hạn chế số lượng phương tiện tham gia giao thông, đồng thời huy động thêm nguồn lực để đầu tư cho hạ tầng giao thông trên địa bàn Thủ đô, phát triển hệ thống vận tải hành khách công cộng nhằm ngày càng phục vụ tốt hơn cho người tham gia giao thông.
Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến cho rằng, sự quá tải về cơ sở hạ tầng giao thông vận tải không chỉ là vấn đề bức xúc của riêng Thủ đô Hà Nội. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì các loại phí trong lĩnh vực giao thông vận tải thuộc thẩm quyền quyết định của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh không nhiều, số thu không lớn so với tổng vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông.
Về Báo cáo tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, đã được Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường trình bày trong sáng ngày 26-10; Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Nguyễn Văn Hiện trình bày Báo cáo thẩm tra.
Thừa phát lại là một chế định pháp luật với nhiệm vụ chủ yếu là hỗ trợ hoạt động tố tụng và thi hành án dân sự. Qua kết quả nhiều năm nghiên cứu, chế định này đã được Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 xác định là một trong những nội dung cần được nghiên cứu và tổ chức thí điểm, nhằm tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoàn thiện thể chế về tố tụng và thi hành án dân sự.
Tại mục 2 Nghị quyết số 24/2008/QH12 về việc thi hành Luật thi hành án dân sự, Quốc hội đã quyết định giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành đến ngày 1-7-2012. Chính phủ tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và báo cáo Quốc hội xem xét, quyết định.
Trên cơ sở đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24-7-2009 quy định cụ thể việc tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại.
Theo báo cáo tổng kết của Chính phủ, những kết quả đạt được về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại trong thời gian qua đã bước đầu khẳng định việc thí điểm chế định Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh là thành công, phù hợp, cần thiết cho xã hội và cho hoạt động tư pháp, được người dân ủng hộ.
Chế định Thừa phát lại đã tạo cơ chế tăng cường tính chủ động, tích cực của công dân trong các quan hệ dân sự, tố tụng dân sự. Trong đó, việc lập vi bằng của Thừa phát lại đã được người dân đón nhận hết sức tích cực vì đã tạo thêm một công cụ pháp lý để người dân tự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trong thực hiện các giao dịch dân sự và trong các quá trình tố tụng tư pháp.
Sự hiện diện của các Văn phòng Thừa phát lại bên cạnh các cơ quan Thi hành án của Nhà nước đã tạo điều kiện để người dân có thêm sự lựa chọn phù hợp với năng lực, điều kiện của cá nhân khi yêu cầu thi hành án dân sự.
Việc tống đạt văn bản của Thừa phát lại đã giúp Tòa án tập trung vào việc xét xử, việc lập vi bằng giúp tạo lập nguồn chứng cứ góp phần bảo đảm cho việc xét xử khách quan, kịp thời và chính xác.
Đối với Cơ quan Thi hành án dân sự, việc thực hiện các công việc về tống đạt văn bản thi hành án, xác minh điều kiện thi hành án, trực tiếp tổ chức thi hành án của Thừa phát lại đã nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cơ quan thi hành án dân sự, tạo cơ chế vừa phối hợp, hỗ trợ vừa cạnh tranh lành mạnh trong lĩnh vực thi hành án, bước đầu góp phần hạn chế một số tiêu cực trong hoạt động thi hành án.
Báo cáo của Chính phủ cũng chỉ ra những mặt còn hạn chế trong quá trình thí điểm chế định Thừa phát lại. Qua xem xét báo cáo của Chính phủ cũng như hoạt động giám sát công tác thi hành án dân sự 2 năm vừa qua, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội cơ bản tán thành với đánh giá của Chính phủ về kết quả thực hiện thí điểm.
Về những hạn chế, bất cập, Ủy ban Tư pháp cho rằng, quá trình thực hiện thí điểm còn những vấn đề cần được đánh giá, phân tích sâu sắc hơn nữa cả về mặt khách quan và chủ quan để rút kinh nghiệm trong thời gian tới.
Quan điểm chung của cả Chính phủ và Ủy ban Pháp luật là kiến nghị Quốc hội ra nghị quyết về tiếp tục thí điểm chế định Thừa phát lại.
* Chiều 26-10, các đại biểu Quốc hội thảo luận ở tổ về công tác phòng chống tội phạm, phòng chống tham nhũng và báo cáo của các cơ quan tư pháp năm 2012.
Nội dung được các đại biểu tập trung thảo luận là tình hình tội phạm trong năm 2012, nhất là tội phạm về tham nhũng; công tác thi hành án, giải quyết bồi thường cho người bị oan cũng như giải pháp khắc phục. Theo các đại biểu, thời gian qua công tác đấu tranh phòng chống tội phạm có những chuyển biến đáng kể, dành được những kết quả tích cực, nhất là loại tội phạm ma túy. Đây là sự cố gắng lớn của các cấp, ngành. Tuy nhiên, theo các đại biểu, những kết quả đó vẫn chưa phản ánh đúng tình hình thực tế, sự mong mỏi của nhân dân, nhất là sự gia tăng của tội phạm tham nhũng, tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, tín dụng đen, tội phạm về môi trường..v.v.
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội Nguyễn Đình Quyền đánh giá cao những cố gắng của các cơ quan bảo vệ pháp luật thời gian qua, góp phần không nhỏ vào phát triển kinh tế xã hội, đem lại niềm tin cho nhân dân. Tuy nhiên, đại biểu Quyền cũng thẳng thắn chỉ ra tồn tại, yếu kém đã tác động không nhỏ đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xói mòn niềm tin của nhân dân. Đó là, trong phòng, chống tham nhũng vẫn còn hiện tượng chống theo diện rộng, chưa hiệu quả, như việc làm mãi không xong việc công khai minh bạch tài sản của cá nhân, nhất là những người có chức vụ quyền hạn; Yếu tố quan trọng là khi hoạch định chính sách cần hạn chế tối đa kẽ hở để tham nhũng có thể len lỏi, lợi dụng.
Đại tá Nguyễn Đức Chung, Giám đốc Công an thành phố Hà Nội đưa ra những dự báo về tình hình tội phạm thời gian tới sẽ tiếp tục diễn biến phức tạp. Trong đó, các tội liên quan đến tài sản ngành tài chính - ngân hàng, buôn bán ma tuý, giao dịch điện tử, bán hàng đa cấp, công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia… sẽ là những thách thức lớn đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật. Theo thống kê chưa đầy đủ của cơ quan chức năng, từ năm 1995 đến nay, trung bình mỗi năm cả nước có khoảng 70.000 vụ ly hôn sau khi đã chung sống từ 3-8 năm khi đã có 1-2 con. Thống kê của Công an Hà Nội, có 60% tội phạm vị thành niên đều có hoàn cảnh chung là cha mẹ ly hôn, ly thân, không ai quan tâm nên sống lêu lổng, không người quản lý. Đại biểu Chung kiến nghị: trong khi sửa đổi Bộ Luật hình sự phải ghi rõ trách nhiệm của cha mẹ, gia đình đối với con cái khi để con em phạm tội.
Phó Chánh án Toà án nhân dân tối cao Nguyễn Sơn nêu rõ, tình hình vi phạm pháp luật về an toàn vệ sinh thực phẩm, tội phạm về môi trường ngày càng gia tăng, gây bức xúc trong dư luận xã hội trong khi việc xử lý rất khó. Điều này buộc các cơ quan tố tụng phải tìm cách tháo gỡ để giữ vững trật tự kỷ cương, đủ sức răn đe và mang lại niềm tin cho nhân dân.
Đối với tội phạm tham nhũng, các đại biểu cho rằng, hiệu quả trong công tác phòng, chống tham nhũng thời gian qua chưa cao. Số vụ án tham nhũng được phát hiện và xử lý trong năm 2012 tuy có tăng, nhưng vẫn chưa tương xứng với tình hình tham nhũng đang diễn ra; số tài sản, đất đai sai phạm rất lớn nhưng thu hồi được rất ít. Số vụ án tham nhũng lớn, nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về tài sản của Nhà nước được phát hiện, xử lý còn chậm, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. Đây là những vấn đề thuộc trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền; các cơ quan, đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng.
Liên quan đến công tác thi hành án, nhiều đại biểu lo ngại về tình trạng án treo, thực trạng thi hành án dân sự thấp hiện nay và một trong những nguyên nhân dẫn đến công tác thi hành án chưa đạt được kết quả cao là việc bố trí nhân sự chưa hợp lý.
* Ngày 27-10, buổi sáng, Quốc hội họp phiên toàn thể tại hội trường, thảo luận về một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật Xuất bản (sửa đổi); buổi chiều, Quốc hội làm việc ở tổ, thảo luận về dự án Luật Thủ đô; việc tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại./.
Thông cáo số 5 Kỳ họp thứ tư, Quốc hội khóa XIII  (27/10/2012)
Công điện của Thủ tướng Chính phủ về ứng phó bão số 8  (27/10/2012)
Hội thảo “Cơ sở lý luận và kinh nghiệm quốc tế về điều chỉnh chính sách đầu tư nước ngoài: bài học rút ra cho Việt Nam”  (26/10/2012)
Điện mừng  (26/10/2012)
Hội thảo khoa học quốc tế “Hợp tác kinh tế Việt Nam - Lào: phát triển một số ngành kinh tế mũi nhọn tới năm 2020”  (26/10/2012)
Việt Nam - Lào tăng cường trao đổi kinh nghiệm tổ chức cán bộ  (26/10/2012)
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm