TCCSĐT - Những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, quan tâm nhiều hơn đến việc đầu tư xây dựng, phát triển hạ tầng giao thông vận tải (GTVT) vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Nhờ đó, diện mạo kinh tế - xã hội của vùng từng bước khởi sắc. Tuy nhiên, nếu so với những tiềm năng, lợi thế của vùng trọng điểm về sản xuất, xuất khẩu nông, thủy sản của cả nước và yêu cầu phát triển trong thời kỳ hội nhập quốc tế thì ĐBSCL đang cần một sự đầu tư thích đáng hơn để sớm hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng GTVT.

Những công trình tạo đà

Trong giai đoạn từ năm 2005 đến nay, thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính trị “Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng ĐBSCL thời kỳ 2001-2010”, Quyết định số 344/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ “Về phương hướng, nhiệm vụ và kế hoạch phát triển giao thông vận tải vùng ĐBSCL đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020”, được sự quan tâm chỉ đạo, đầu tư của Trung ương Đảng; sự phối hợp của Ban Chỉ đạo Tây Nam Bộ, các bộ, ngành Trung ương và các tỉnh, thành trong vùng, tình hình đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng GTVT ở vùng ĐBSCL đã đạt được những kết quả đáng kể. Nổi bật là:

Về quy hoạch: Đã hoàn thành quy hoạch chuyên ngành đường bộ, đường sắt, đường thủy, hàng không và cụm cảng biển số 6.

Về đường bộ: Hoàn thành việc nâng cấp một số tuyến quốc lộ (QL) chính yếu như: QL1 đoạn Trung Lương - Cần Thơ quy mô 4 làn xe, tuyến cao tốc thành phố Hồ Chí Minh - Trung Lương; một số đoạn trên các tuyến N2, QL50, QL80, QL61, QL62, QL54, QL53, QL91, QL57; cơ bản hoàn thành việc xây dựng tuyến Nam Sông Hậu, tuyến Quản Lộ - Phụng Hiệp; hoàn thành một số cầu lớn như: Mỹ Thuận, Cần Thơ, Rạch Miễu, Hàm Luông; khởi công xây dựng một số công trình GTVT quan trọng khác như: đường hành lang ven biển phía Nam, đường Hồ Chí Minh…

Về đường thủy nội địa: Hoàn thành nâng cấp 2 tuyến đường thủy phía Nam là: tuyến Thành phố Hồ Chí Minh - Kiên Lương và tuyến Thành phố Hồ Chí Minh - Cà Mau; khởi công nâng cấp tuyến vận tải thủy từ Thành phố Hồ Chí Minh qua Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên đến Hà Tiên, Thành phố Hồ Chí Minh - kênh Chợ Gạo - sông Tiền - Chợ Lách - Măng Thít - Đại Ngãi - Bạc Liêu.

Về hàng hải: Hoàn thành đầu tư xây dựng cảng An Thới, cảng Cái Cui (bước 1, giai đoạn 2); khởi công nạo vét luồng tàu biển trọng tải lớn vào sông Hậu qua kênh Quan Chánh Bố.

Về hàng không: Hoàn thành xây dựng Cảng Hàng không quốc tế Cần Thơ; khởi công xây dựng Cảng Hàng không quốc tế Phú Quốc mới (giai đoạn 1); hoàn thành việc nâng cấp một số hạng mục Cảng Hàng không Rạch Giá, Cà Mau, Phú Quốc; công bố quy hoạch sân bay taxi tại An Giang.

Nhìn chung, hệ thống kết cấu hạ tầng GTVT được đầu tư xây dựng ở vùng ĐBSCL trong giai đoạn này đã hình thành nên mạng lưới đường bộ theo dạng ô bàn cờ bao gồm các trục dọc, trục ngang và hệ thống đường vành đai liên kết với nhau một cách hợp lý. Hệ thống đường sông được đầu tư đáng kể, nhất là ở các tuyến sông chính yếu, cùng với hệ thống đường thủy do các địa phương quản lý đã tạo thêm điều kiện kết nối toàn khu vực với các cảng sông, cảng biển. Hệ thống sân bay được quy hoạch xây dựng trên nguyên tắc phân bố đều, đặc biệt là ở các tỉnh, thành nằm trong vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL, bảo đảm tăng cường khả năng kết nối vùng với các vùng miền khác trong nước và quốc tế. Hệ thống kết cấu hạ tầng GTVT  này đã góp phần rất quan trọng vào việc từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng vùng ĐBSCL trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Thiếu nguồn lực đầu tư

Mặc dù đã đạt được một số thành tựu đáng kể nhưng nhìn chung, theo nhận định của Bộ Giao thông vận tải và các tỉnh, thành vùng ĐBSCL, việc đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng GTVT trên phạm vi toàn vùng vẫn còn nhiều bất cập, chưa phát huy hết những tiềm năng, thế mạnh, tạo điều kiện cho ĐBSCL phát triển nhanh và bền vững, tiến kịp các vùng, miền khác trong nước. Đáng lưu ý là một số công trình quan trọng đóng vai trò tạo động lực phát triển cho toàn vùng thực hiện chậm so với kế hoạch đã đề ra trong Quyết định số 344/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Cụ thể như tuyến cao tốc Trung Lương - Cần Thơ, cầu Cao Lãnh, cầu Cổ Chiên, cầu Vàm Cống, tuyến nối 2 cầu Cao Lãnh và Vàm Cống, đường Hồ Chí Minh, nhiều cầu yếu trên một số tuyến quốc lộ vẫn chưa được đầu tư xây dựng, nâng cấp, làm hạn chế khả năng vận tải hàng hóa; chưa khai thác, phát huy được điều kiện tự nhiên đặc thù và thế mạnh của vùng là vận tải thủy, liên kết giữa các phương thức vận tải thủy, bộ chưa tốt; luồng tàu cho các tàu có tải trọng lớn vào các cảng trên sông Hậu bốc dỡ hàng hóa bị bồi lắng…

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, bất cập này. Theo nhận định chung của Bộ Giao thông vận tải và các địa phương trong vùng, nguyên nhân chủ yếu là do nguồn lực đầu tư của các địa phương hạn hẹp; nguồn vốn ngân sách hằng năm phân bổ cho Bộ Giao thông vận tải chỉ đủ bố trí phần vốn đối ứng cho các dự án ODA, chưa đáp ứng kịp nhu cầu đầu tư thực tế. Tình trạng biến động giá cả vật tư, nguyên vật liệu từ năm 2007 đến nay, khó khăn trong công tác giải phóng mặt bằng cũng là những vướng mắc lớn. Thêm vào đó, phần lớn các công trình hạ tầng GTVT đều không mang lại lợi nhuận ngay nên khó kêu gọi đầu tư tư nhân trong nước và các nhà đầu tư nước ngoài…

Để tạo điều kiện phát triển vùng ĐBSCL thích ứng với thời kỳ hội nhập quốc tế, ngày 28-4-2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 638/QĐ-TTg “Về phương hướng, nhiệm vụ và kế hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải vùng ĐBSCL đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”. Quyết định nêu rõ: “Đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của vùng ĐBSCL phải đi trước một bước, trên cơ sở làm tốt công tác quy hoạch, hình thành được một hệ thống giao thông đồng bộ, liên hoàn và kết hợp được các hình thức vận tải, đáp ứng yêu cầu và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội của cả vùng, hội nhập mạnh hơn với cả nước, với khu vực và quốc tế.  Huy động mọi nguồn lực từ ngân sách nhà nước (Trung ương và địa phương), các nguồn vốn trong dân và các nguồn vốn hợp pháp khác trong nước và ngoài nước để đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông của vùng. Kết hợp chặt chẽ đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông với thủy lợi, kiểm soát lũ và xây dựng cụm, tuyến dân cư vùng ngập lũ. Để thích ứng và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu mà trực tiếp là mực nước biển dâng, các bộ, ngành và các địa phương theo chức năng, nhiệm vụ từng bước đầu tư hệ thống đường ven biển đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 129/QĐ-TTg ngày 18-1-2010 trong đó có xem xét lồng ghép kết hợp đường ven biển và đê biển...”.

Giải pháp tháo gỡ “nút nghẽn”

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, mới đây, tại Hội nghị triển khai thực hiện Quyết định số 638/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ “Về phương hướng, nhiệm vụ và kế hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải vùng ĐBSCL đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”, trên cơ sở xem xét tình hình thực tế của đất nước và các địa phương vùng ĐBSCL; vừa bảo đảm mục tiêu đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh vừa thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, với sự nhất trí của một số bộ, ngành Trung ương có liên quan và lãnh đạo các tỉnh, thành vùng ĐBSCL, Bộ Giao thông vận tải đã xác định danh mục công trình kết cấu hạ tầng GTVT quan trọng, cấp bách có tính chất động lực thúc đẩy phát triển vùng ĐBSCL sẽ  được tập trung ưu tiên đầu tư trong giai đoạn 2012-2015. Đó là:

- Về đường bộ:

Hoàn thành việc đầu tư xây dựng, cải tạo, nâng cấp các công trình: cầu Cổ Chiên; đường hành lang ven biển phía Nam (giai đoạn 1); QL91 đoạn Tịnh Biên - Châu Đốc và đoạn Cần Thơ – Cái Sắn; QL50 đoạn Mỹ Lợi - Gò Công, đoạn Gò Công- Mỹ Tho; QL53 các đoạn từ quốc lộ 1A đến ngã ba Cái Nhum, đoạn cửa ngõ thành phố Trà Vinh, đoạn qua huyện Duyên  Hải và Trà Cú, đoạn Đại An - Tập Sơn; QL54 đoạn qua 3 huyện Cầu Kè - Tiểu Cần - Trà Cú; khởi công xây dựng các dự án: cầu Năm Căn, cầu Cao Lãnh, cầu Vàm Cống và tuyến nối 2 cầu này; cầu Mỹ Lợi; tuyến cao tốc Trung Lương - Cần Thơ; tuyến Lộ Tẻ - Rạch Sỏi; từng bước xây dựng thay thế các cầu yếu trên các tuyến quốc lộ.

- Về đường thủy nội địa:

Hoàn thành nâng cấp tuyến kênh Chợ Gạo; dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông ĐBSCL bằng nguồn vốn ODA; sử dụng vốn sự nghiệp để nạo vét tuyến kênh Bạc Liêu - Cà Mau.

- Về đường biển:

Hoàn thành dự án luồng cho tàu biển lớn vào sông Hậu; hoàn thành nâng cấp luồng sông Cửa Lớn; nghiên cứu bổ sung quy hoạch cảng trung chuyển than cho các nhà máy nhiệt điện trong khu vực.

- Về hàng không:

Hoàn thành Cảng Hàng không quốc tế Phú Quốc mới (giai đoạn 1) để đưa vào khai thác sử dụng, bảo đảm tiếp nhận các loại  máy bay B777, B747.

Giai đoạn 2012-2015, theo ước tính của Bộ Giao thông vận tải, nhu cầu vốn để hoàn thành 34 dự án thuộc danh mục các dự án quan trọng, cấp bách nêu trên khoảng 111.672 tỷ đồng. Trong số đó, đến nay đã bố trí và xác định được nguồn vốn 47.972 tỷ đồng (chiếm 43% tổng nhu cầu), còn 63.700 tỷ đồng hiện vẫn chưa tìm được nguồn. Trong bối cảnh tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ, Bộ Giao thông vận tải xác định: đối với các dự án mới chưa xác định được nguồn vốn, trước mắt Bộ sẽ tiếp tục tìm kiếm các nguồn vốn khác nhau, thông qua các hình thức đầu tư khác nhau để thực hiện. Đối với các dự án do địa phương quản lý nằm trong danh mục của Quyết định số 638/QĐ-TTg, các địa phương cần xem xét, sắp xếp lại thứ tự ưu tiên, từ đó chủ động cân đối ngân sách địa phương và  huy động các nguồn vốn hợp pháp để triển khai thực hiện.

Một số giải pháp, cơ chế chính sách phát triển kết cấu hạ tầng GTVT vùng ĐBSCL từ nay đến năm 2015, định hướng đến năm 2020 đã được Bộ Giao thông vận tải xác định là:

- Về quy hoạch, kế hoạch: Rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông từ ngành đến các địa phương;

Tránh đầu tư dàn trải; tập trung đầu tư có trọng điểm theo chương trình, kế hoạch.

- Về vốn đầu tư: Tăng nguồn vốn ngân sách nhà nước phân bổ cho Bộ Giao thông vận tải để đầu tư kết cấu hạ tầng GTVT vùng ĐBSCL, trong đó chú trọng một số công trình quan trọng cấp bách và hệ thống cầu yếu trên các tuyến đường bộ quan yếu;

Ban hành cơ chế, chính sách phù hợp nhằm thu hút tối đa các nguồn vốn thực hiện các dự án. Bên cạnh nguồn vốn từ ngân sách nhà nước để bảo đảm hiệu quả các dự án, cần nỗ lực thu hút các nhà đầu tư, các doanh nghiệp trong và ngoài nước góp vốn xây dựng hạ tầng GTVT theo các hình thức đầu tư BT, BOT, PPP.

Bổ sung, phát hành vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2012-2020 để tập trung vốn hoàn thành các công trình dở dang, công trình đang bị đình hoãn và khởi công các công trình quan trọng, cấp bách.

Cân đối, bố trí đủ vốn đối ứng cho các dự án ODA trong vùng để triển khai đúng tiến độ dự án theo hiệp định vay vốn.

*

*   *

Xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng GTVT đang là đòi hỏi và nhu cầu bức xúc của ĐBSCL. Để bảo đảm cho những mục tiêu đã đề ra trong Quyết định số 638/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ trở thành hiện thực, bên cạnh những giải pháp đã đề ra, một yêu cầu bức thiết đang đặt ra là các bộ, ngành Trung ương và lãnh đạo các tỉnh, thành vùng ĐBSCL cần tỏ rõ quyết tâm đổi mới tư duy, hành động theo hướng ưu tiên và tăng cường hợp tác, liên kết vùng trong việc quy hoạch, xây dựng các dự án và kêu gọi đầu tư thực hiện các công trình GTVT trọng điểm, bức  xúc. Có như thế mới tránh được tình trạng “mạnh ai nấy làm” vừa lãng phí, vừa kém hiệu quả./.