Vốn trái phiếu chính phủ thực hiện trong giai đoạn 2011 - 2015 không quá 225.000 tỉ đồng
Kết quả Phiếu xin ý kiến đại biểu Quốc hội, có 296/321 (92%) ý kiến đại biểu Quốc hội đồng ý mức vốn trái phiếu chính phủ thực hiện trong giai đoạn 2011 - 2015 là 225.000 tỉ đồng. Tại phiên họp Quốc hội ngày 9-11, 449/458 đại biểu Quốc hội có mặt cũng đã biểu quyết thông qua tổng mức đầu tư vốn trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2011-2015 không quá 225.000 tỉ đồng (chiếm 89,80%). Trên cơ sở đó, đồng thời từ phân tích bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức, cân đối vĩ mô còn bất ổn, tình hình nợ công, bội chi ngân sách ngày một tăng cao, việc huy động, phát hành trái phiếu chính phủ ngày càng khó khăn thì mức vốn trái phiếu chính phủ thực hiện trong giai đoạn 2011 - 2015 không quá 225.000 tỉ đồng là phù hợp với tình hình thực tế và khả năng của nền kinh tế.
Thực tế, để đáp ứng đủ nhu cầu vốn trái phiếu chính phủ cho những công trình, dự án đã được phê duyệt thì ước tính cần phát hành khoảng 405.000 tỉ đồng, tính cả trượt giá khoảng 500.000 tỉ đồng, đây là con số quá lớn, vượt quá khả năng huy động của nền kinh tế, không thể cân đối đủ nguồn lực, dễ dẫn tới bất ổn cho kinh tế vĩ mô, đe dọa an ninh tài chính quốc gia.
Xung quanh việc bố trí vốn trái phiếu chính phủ giai đoạn 2011 - 2015, tinh thần chung được đề ra là không cứng nhắc mà căn cứ vào cân đối vốn để bố trí linh hoạt, tập trung bố trí cho các dự án có khả năng hoàn thành và có khả năng đem lại hiệu quả nhanh.
Ngày 15-10-2011, Thủ tướng Chính phủ đã có Chỉ thị số 1792/CT-TTg về tăng cường quản lý đầu tư từ NSNN và vốn trái phiếu chính phủ, trong đó giao cho các bộ, ngành, địa phương tổ chức rà soát và lập danh mục các dự án được đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu chính phủ giai đoạn 2011 - 2015. Trong đó, nhấn mạnh việc xác định danh mục các dự án, công trình bố trí vốn trái phiếu chính phủ trong giai đoạn 2011 - 2015 phải trên cơ sở rà soát giãn, hoãn, chuyển đổi hình thức đầu tư đối với một số dự án, công trình đã có trong danh mục, tránh gây tổn thất, lãng phí nguồn vốn.
Đối với các dự án, công trình không được tiếp tục sử dụng từ nguồn vốn trái phiếu chính phủ trong giai đoạn 2011 - 2015 sẽ tính toán huy động, kết hợp với các nguồn lực khác như: nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức, vốn ngân sách tập trung (ngân sách trung ương và ngân sách địa phương), chuyển đổi sang hình thức huy động khác như xây dựng - vận hành - chuyển giao, hợp tác công tư và nguồn vốn góp của dân cư để có thể tiếp tục triển khai thực hiện các công trình, dự án. Những tác động, ảnh hưởng do việc giãn, hoãn các công trình, dự án không được tiếp tục triển khai từ nguồn vốn trái phiếu chính phủ trong giai đoạn 2011 - 2015 cũng cần được làm rõ để có phương án xử lý, giảm thiểu lãng phí, tổn thất./.
Quốc hội thông qua 3 nghị quyết quan trọng  (09/11/2011)
Khởi đầu “bàn cờ lớn” ở Afghanistan  (09/11/2011)
Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo sản xuất lúa vụ Đông Xuân vùng đồng bằng sông Cửu Long  (08/11/2011)
Thông cáo số 14, Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII  (08/11/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm