Trao tặng Hòa thượng Thích Thanh Tứ Huân chương Hồ Chí Minh
20:01, ngày 23-10-2011
Ngày 23-10, tại Hà Nội, Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã tổ chức lễ đón nhận Huân chương Hồ Chí Minh của Nhà nước trao tặng Hòa thượng Thích Thanh Tứ, Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan đã trang trọng trao Huân chương Hồ Chí Minh tặng Hòa thượng Thích Thanh Tứ trước sự chứng kiến của đông đảo đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, đoàn thể, chức sắc tôn giáo và các tăng ni, phật tử.
Hòa thượng Thích Thanh Tứ, thế danh Trần Văn Long, sinh năm 1927, trong một gia đình nông dân nghèo tại thôn Miêu Nha, xã Song Mai, huyện Kim Động, Hưng Yên. Năm 6 tuổi, Hòa thượng được Ni trưởng Thích Đàm Ân trụ trì chùa Nho Lâm (Kim Động) nhận về nuôi và cho đi học tại các trường trong vùng. Năm 12 tuổi được thụ giáo Hòa thượng Thích Thanh Hồ, trụ trì chùa Đống Long trên địa bàn. Năm 1947, Hòa thượng được thụ Đại giới Tỷ khiêu tại chùa Đống Long.
Thấm nhuần tư tưởng “Phật pháp bất ly thế gian giác”, với truyền thống yêu nước “hộ quốc an dân” của Phật giáo Việt Nam suốt 2000 năm hiện diện và đồng hành với dân tộc, Hòa thượng Thích Thanh Tứ đã sớm giác ngộ cách mạng, tích cực tham gia hoạt động bí mật trong lòng địch, ủng hộ các phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh.
Tháng 3-1945, Hòa thượng đã cùng với nhân dân địa phương tổ chức phá kho thóc của Nhật đặt tại chùa Đống Long nhằm cứu giúp đồng bào đang lâm vào cảnh đói khổ, tập hợp quần chúng đấu tranh giành chính quyền tại quê hương.
Từ tháng 1-1959 – 9-1951, Hòa thượng đã trực tiếp tham gia lực lượng vũ trang bí mật tỉnh Hưng Yên, làm công tác dân vận, thúc đẩy tăng ni, Phật tử tích cực tham gia các phong trào lao động sản xuất ủng hộ kháng chiến, bảo vệ cách mạng và bị thực dân Pháp đưa tên vào danh sách những người đặc biệt quan tâm.
Từ tháng 10-1951 – 4-1953, Hòa thượng đã bị thực dân Pháp bắt, tra tấn và giam cầm ở nhiều nơi. Song với tinh thần đại hùng, đại lực, đại từ bi, Hòa thượng đã thể hiện rõ bản lĩnh của người trượng phu phụng sự đất nước, buộc thực dân Pháp phải trả tự do cho mình và hơn 100 chiến sỹ cách mạng khác. Ra khỏi nhà lao, Hòa thượng tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng cho đến ngày miền Bắc được giải phóng.
Từ năm 1974-1980, Hòa thượng được suy cử Ủy viên Ban chấp hành kiêm Chánh văn phòng Trung ương Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam. Với trọng trách của mình, Hòa thượng Thích Thanh Tứ đã cùng các chức sắc tôn giáo xây dựng nhiều chương trình hoạt động Phật sự ích đạo lợi đời, củng cố hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương, tạo nền tảng và tiền đề phát triển tổ chức Giáo hội Phật giáo toàn quốc.
Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ V (2002-2007) và lần thứ VI (2007-2012), Hòa thượng được suy tôn là thành viên Hội đồng Chứng minh và suy cử làm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự, Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội. Hòa thượng đã có nhiều đóng góp quan trọng đối với đạo Pháp, phục hồi các hoạt động Phật sự đúng chính pháp tại các sơ sở tự viện, động viên tăng ni phật tử yên tâm hành đạo và tăng gia sản xuất…
Với tinh thần phụng sự chúng sinh là thiết thực cúng dàng chư Phật, Hòa thượng thường xuyên thăm hỏi, tặng quà động viên các trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi khuyết tật, ảnh hưởng chất độc da cam, các trung tâm nuôi dưỡng người không nơi nương tựa, những gia đình gặp hoạn nạn, khó khăn… Hòa thượng được cử tri tín nhiệm bầu là đại biểu Quốc hội các khóa XI, XII. Dù ở cương vị nào, Hòa thượng cũng luôn nhận được tình cảm kính trọng đặc biệt của tăng ni, Phật tử cũng như cộng đồng xã hội.
Chúc mừng Hòa thượng Thích Thanh Tứ vinh dự được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Vũ Trọng Kim khẳng định Hòa thượng Thích Thanh Tứ là bậc đại lão hòa thượng có uy tín lớn trong Giáo hội và tăng ni.
Bày tỏ sự xúc động và tấm lòng tri ân công đức được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Hòa thượng Thích Thanh Tứ cho rằng phần thưởng cao quý đó trước hết là thuộc về toàn thể tăng ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng mong muốn tăng ni, Phật tử cả nước trân trọng phần thưởng đó và không ngừng phát huy truyền thống, đóng góp trí tuệ vào sự nghiệp chung của đất nước, thể hiện trách nhiệm đối với các bậc tiền nhân đã dày công vun đắp, để tư tưởng Tứ Trọng Ân được thấm sâu trong mỗi việc làm ích đời, lợi đạo./.
Hòa thượng Thích Thanh Tứ, thế danh Trần Văn Long, sinh năm 1927, trong một gia đình nông dân nghèo tại thôn Miêu Nha, xã Song Mai, huyện Kim Động, Hưng Yên. Năm 6 tuổi, Hòa thượng được Ni trưởng Thích Đàm Ân trụ trì chùa Nho Lâm (Kim Động) nhận về nuôi và cho đi học tại các trường trong vùng. Năm 12 tuổi được thụ giáo Hòa thượng Thích Thanh Hồ, trụ trì chùa Đống Long trên địa bàn. Năm 1947, Hòa thượng được thụ Đại giới Tỷ khiêu tại chùa Đống Long.
Thấm nhuần tư tưởng “Phật pháp bất ly thế gian giác”, với truyền thống yêu nước “hộ quốc an dân” của Phật giáo Việt Nam suốt 2000 năm hiện diện và đồng hành với dân tộc, Hòa thượng Thích Thanh Tứ đã sớm giác ngộ cách mạng, tích cực tham gia hoạt động bí mật trong lòng địch, ủng hộ các phong trào cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh.
Tháng 3-1945, Hòa thượng đã cùng với nhân dân địa phương tổ chức phá kho thóc của Nhật đặt tại chùa Đống Long nhằm cứu giúp đồng bào đang lâm vào cảnh đói khổ, tập hợp quần chúng đấu tranh giành chính quyền tại quê hương.
Từ tháng 1-1959 – 9-1951, Hòa thượng đã trực tiếp tham gia lực lượng vũ trang bí mật tỉnh Hưng Yên, làm công tác dân vận, thúc đẩy tăng ni, Phật tử tích cực tham gia các phong trào lao động sản xuất ủng hộ kháng chiến, bảo vệ cách mạng và bị thực dân Pháp đưa tên vào danh sách những người đặc biệt quan tâm.
Từ tháng 10-1951 – 4-1953, Hòa thượng đã bị thực dân Pháp bắt, tra tấn và giam cầm ở nhiều nơi. Song với tinh thần đại hùng, đại lực, đại từ bi, Hòa thượng đã thể hiện rõ bản lĩnh của người trượng phu phụng sự đất nước, buộc thực dân Pháp phải trả tự do cho mình và hơn 100 chiến sỹ cách mạng khác. Ra khỏi nhà lao, Hòa thượng tiếp tục tham gia hoạt động cách mạng cho đến ngày miền Bắc được giải phóng.
Từ năm 1974-1980, Hòa thượng được suy cử Ủy viên Ban chấp hành kiêm Chánh văn phòng Trung ương Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam. Với trọng trách của mình, Hòa thượng Thích Thanh Tứ đã cùng các chức sắc tôn giáo xây dựng nhiều chương trình hoạt động Phật sự ích đạo lợi đời, củng cố hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương, tạo nền tảng và tiền đề phát triển tổ chức Giáo hội Phật giáo toàn quốc.
Tại Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc lần thứ V (2002-2007) và lần thứ VI (2007-2012), Hòa thượng được suy tôn là thành viên Hội đồng Chứng minh và suy cử làm Phó Chủ tịch Thường trực Hội đồng Trị sự, Viện trưởng Học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội. Hòa thượng đã có nhiều đóng góp quan trọng đối với đạo Pháp, phục hồi các hoạt động Phật sự đúng chính pháp tại các sơ sở tự viện, động viên tăng ni phật tử yên tâm hành đạo và tăng gia sản xuất…
Với tinh thần phụng sự chúng sinh là thiết thực cúng dàng chư Phật, Hòa thượng thường xuyên thăm hỏi, tặng quà động viên các trung tâm nuôi dưỡng trẻ mồ côi khuyết tật, ảnh hưởng chất độc da cam, các trung tâm nuôi dưỡng người không nơi nương tựa, những gia đình gặp hoạn nạn, khó khăn… Hòa thượng được cử tri tín nhiệm bầu là đại biểu Quốc hội các khóa XI, XII. Dù ở cương vị nào, Hòa thượng cũng luôn nhận được tình cảm kính trọng đặc biệt của tăng ni, Phật tử cũng như cộng đồng xã hội.
Chúc mừng Hòa thượng Thích Thanh Tứ vinh dự được trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Vũ Trọng Kim khẳng định Hòa thượng Thích Thanh Tứ là bậc đại lão hòa thượng có uy tín lớn trong Giáo hội và tăng ni.
Bày tỏ sự xúc động và tấm lòng tri ân công đức được Đảng, Nhà nước trao tặng Huân chương Hồ Chí Minh, Hòa thượng Thích Thanh Tứ cho rằng phần thưởng cao quý đó trước hết là thuộc về toàn thể tăng ni, Phật tử Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Hòa thượng mong muốn tăng ni, Phật tử cả nước trân trọng phần thưởng đó và không ngừng phát huy truyền thống, đóng góp trí tuệ vào sự nghiệp chung của đất nước, thể hiện trách nhiệm đối với các bậc tiền nhân đã dày công vun đắp, để tư tưởng Tứ Trọng Ân được thấm sâu trong mỗi việc làm ích đời, lợi đạo./.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang: Sử học có vai trò to lớn trong giáo dục truyền thống, làm nên cốt cách người Việt Nam  (23/10/2011)
Chủ tịch nước tiếp trưởng phái đoàn EU và Đại sứ Iran  (22/10/2011)
Tổng Bí thư thăm Học viện Chính trị Bộ Quốc phòng  (22/10/2011)
Thông cáo số 2 Kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XIII  (22/10/2011)
Những toan tính nguy hiểm  (22/10/2011)
Quốc hội bàn về dự thảo Luật lưu trữ, Luật đo lường và đầu tư, nợ công  (22/10/2011)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm