Quốc hội bàn về dự thảo Luật lưu trữ, Luật đo lường và đầu tư, nợ công
TCCSĐT - Tiếp tục chương trình kỳ họp thứ hai, sáng 21-10, Quốc hội làm việc tại Hội trường, thảo luận một số nội dung còn ý kiến khác nhau của dự thảo Luật lưu trữ và Luật đo lường.
Thống nhất phòng lưu trữ quốc gia
Về dự thảo Luật lưu trữ, các đại biểu cơ bản đồng tình với những tiếp thu, chỉnh lý, bổ sung của cơ quan soạn thảo trong quá trình hoàn thiện. Tiếp thu ý kiến của đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật tiếp tục quy định về Phông lưu trữ quốc gia Việt Nam bao gồm Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam và Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam. Quy định Phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam và Phông lưu trữ Nhà nước Việt Nam chỉ nhằm phân biệt nơi nộp lưu và bảo quản tài liệu lưu trữ lịch sử của các cơ quan, tổ chức nhưng về nghiệp vụ lưu trữ và việc quản lý về lưu trữ được thực hiện theo một cơ chế quản lý thống nhất về lưu trữ.
Về vấn đề này, đại biểu Trần Hồng Thắm (đoàn Cần Thơ) cho rằng, hai phông lưu trữ được lưu giữ một nơi sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoàn thiện cơ sở vật chất, phòng ngừa thất thoát tài liệu, bộ máy quản lý tài liệu được tinh gọn. Tuy nhiên, đại biểu cho rằng, cần có những quy định chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo tính bảo mật thông tin đối với phông lưu trữ Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại biểu Lê Nam (đoàn Thanh Hóa) cho rằng, không nên phân chia và nhấn mạnh lưu trữ của Đảng Cộng sản Việt Nam bên cạnh phông lưu trữ của Nhà nước Việt Nam mà chỉ coi lưu trữ của Đảng Cộng sản Việt Nam như lưu trữ của các ngành đặc biệt như quân đội nhân dân và công an nhân dân.
Về tổ chức lưu trữ lịch sử, nhiều ý kiến đề nghị tổ chức lưu trữ lịch sử ở 3 cấp (Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện) như quy định hiện hành. Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định chỉ tổ chức lưu trữ lịch sử 2 cấp (Trung ương và cấp tỉnh) là phù hợp, sẽ tạo điều kiện tốt hơn cho tập trung nguồn nhân lực, cơ sở vật chất, hiện đại hóa kho tàng, trang thiết bị làm việc để bảo quản an toàn và tổ chức sử dụng có hiệu quả tài liệu lưu trữ đồng thời đáp ứng yêu cầu tinh gọn bộ máy, giảm cấp trung gian, góp phần thực hiện cải cách hành chính. Đồng tình với giải trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, đại biểu Nguyễn Thành Tâm (đoàn Tây Ninh) cho rằng, cần nghiên cứu thêm quy định về việc sắp xếp và chuyển giao lưu trữ tại cấp huyện, cấp tỉnh, tránh tình trạng khi luật có hiệu lực thi hành nhưng chuyển giao thực hiện không kịp thời, gây ra tình trạng thất thoát và hư hỏng tài liệu lịch sử cũng như không giải quyết tốt các vấn đề về việc làm, tài sản...đang được quản lý ở cấp huyện.
Đại biểu Trần Hồng Thắm cho rằng, tổ chức lưu trữ ở 2 cấp là chưa phù hợp, vì chưa bảo đảm tính dự báo, tính bền vững của Luật, trong thời gian ngắn sẽ quá tải, phát sinh nhiều bất cập mới. Đại biểu Tôn Thị Ngọc Hạnh (Đắk Nông) đề nghị cần cân nhắc kỹ, đánh giá đúng những ưu điểm và hạn chế, không thể dễ dàng bỏ lưu trữ ở cấp huyện vì thực tiễn tài liệu lưu trữ ở cấp này rất phong phú và đa dạng. Lưu trữ lịch sử cấp huyện sẽ tạo điều kiện cho người dân dễ dàng tiếp cận để khai thác, nhất là người dân ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.Đại biểu Nguyễn Sỹ Cương (Ninh Thuận) cũng cho rằng, nguồn nộp lưu tại lưu trữ cấp huyện khá nhiều và khác nhau, nếu đưa lên cấp tỉnh sẽ quá tải, trong khi lợi ích của công tác lưu trữ là phục vụ cho sử dụng, nếu cấp huyện có lưu trữ sẽ giúp ích rất nhiều cho công tác nghiên cứu.
Đại biểu Nguyễn Ngọc Phương (đoàn Quảng Bình) đồng tình: Mức độ lưu trữ ở huyện cũng không phải là ít, nhu cầu cung cấp để khai thác cũng nhiều, nếu tập trung về lưu trữ tại tỉnh thì cấp tỉnh sẽ quá tải, mặt khác, có rất nhiều tài liệu cần lưu trữ ở huyện. Nếu chỉ tính đến đầu tư, giảm biên chế mà không tính đến lượng người bỏ công về tỉnh để khai thác cũng chưa phù hợp. Đại biểu đề nghị cần có lưu trữ ở cấp huyện để tiện lợi cho việc khai thác, tăng thêm lưu trữ, giảm bớt phiền hà cho những người cần khai thác. Tuy nhiên, theo đại biểu Dương Trung Quốc (đoàn Đồng Nai), không nên thành lập cơ quan lưu trữ ở cấp huyện mà nên quy về cấp tỉnh để cái nhìn tổng quát hơn, vừa bảo đảm yếu tố hạn chế bộ máy công chức cồng kềnh đồng thời phát huy vai trò chủ yếu của cấp huyện là phục vụ vấn đề đời sống phát triển đương đại.
Nhiều đại biểu cũng cho rằng, dự thảo Luật có 45 điều nhưng có tới 15 điều giao cho Chính phủ và Bộ Nội vụ quy định chi tiết, sẽ phải mất thời gian khá dài mới đi vào được cuộc sống. Để khắc phục tình trạng luật khung, luật ống, cần quy định chi tiết ngay trong luật nhiều quy định.
Cần nâng mức xử phạt đối với hành vi gian lận đo lường
Báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật đo lường của Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho thấy, dự thảo đã bổ sung nhiều nội dung quy định nhằm đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động đo lường như: điều kiện hoạt động của tổ chức được chỉ định giữ chuẩn quốc gia, không phân biệt đơn vị sự nghiệp công lập hay tổ chức tư nhân; điều kiện hoạt động của tổ chức kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh, kiểm định, hiệu chuẩn, thử nghiệm phương tiện đo, chuẩn đo lường; quyền và nghĩa vụ của tổ chức xã hội - nghề nghiệp về đo lường...
Về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về đo lường, theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, có 52/64 báo cáo tổng hợp ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, đoàn đại biểu Quốc hội cho rằng mức xử phạt các hành vi gian lận còn nhẹ, cần nâng cao hơn nữa; có ý kiến đề nghị nâng mức xử phạt lên 20-50 lần số tiền thu lợi bất chính; chế tài xử phạt nghiêm minh. Tiếp thu các ý kiến này, dự thảo quy định mức phạt sẽ được thực hiện theo pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính. Trường hợp đã áp dụng mức phạt cao nhất theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính mà vẫn thấp hơn số tiền thu lợi bất chính trong suốt quá trình vi phạm sẽ áp dụng mức phạt từ 1-5 lần số tiền đó.
Tuy nhiên, theo đại biểu Thân Đức Nam (đoàn Đà Nẵng), để bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, không nên quy định chi phí trong Luật này mà chỉ quy định nguyên tắc về việc thu phí, lệ phí cho hoạt động đo lường như đã thể hiện ở Điều 26. Đại biểu đề nghị bỏ Khoản 5, Khoản 6, Điều 52 về xử lý vi phạm pháp luật về đo lường, đồng thời sửa đổi, bổ sung Khoản 4 quy định về hình thức mức phạt tiền, thẩm quyền xử phạt các hành vi và vi phạm pháp luật đo lường theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. Đại biểu Trần Thị Dung (đoàn Điện Biên) cũng cho rằng quy định về mức phạt như trong dự thảo không đảm bảo được tính thống nhất pháp luật về xử lý vi phạm hành chính hiện hành. Việc quy định các mức xử phạt, tiền phải được xem xét nhiều mặt, kể cả về lý luận cũng như thực tiễn để phù hợp với điều kiện phát triển về kinh tế xã hội và thu nhập của người dân. Đại biểu Mai Thị Ánh Tuyết (đoàn An Giang) đồng tình: Quy định như dự thảo rất chung chung, khó thực hiện và không thống nhất trong việc thực thi trách nhiệm giữa các nơi và các tỉnh. Đại biểu đề nghị, trường hợp vượt mức phạt cao nhất nên quy định cụ thể hơn; tùy trường hợp tính chất, mức độ vi phạm có thể truy cứu hình sự đối với những trường hợp vi phạm gây ra hậu quả nghiêm trọng.
Theo đại biểu Đỗ Văn Vẻ (đoàn Thái Bình), cần quy định rõ nguyên tắc xử lý vi phạm pháp luật về đo lường trong nhiều lĩnh vực khác bởi hiện nay mức xử phạt vi phạm hành chính là quá nhẹ dẫn đến đối tượng sẵn sàng vi phạm và nộp phạt để thu lợi nhiều hơn. Những vi phạm trong lĩnh vực đo lường có thể thu lợi bất chính hàng triệu thậm chí hàng chục triệu đồng nhưng chỉ bị phạt vi phạm hành chính với mức vài trăm ngàn đồng, như vậy việc xử phạt không có tác dụng. Đại biểu đề nghị quy định trong luật nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính đối với những vi phạm về đo lường phải cao hơn số lợi bất chính thu được từ vi phạm, mức cụ thể do Chính phủ quy định. Đại biểu Nguyễn Phước Lộc (đoàn TP Hồ Chí Minh) lại cho rằng, cần nâng mức xử phạt đối với hành vi gian lận đo lường để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, có thể xử phạt gấp 20 - 30 lần số tiền thu lợi bất chính. Ngoài xử phạt cần đình chỉ hoạt động đối với cơ sở cố tình vi phạm pháp luật về đo lường.
Chiều 21-10, Quốc hội thảo luận ở tổ về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015.
Trong phần thảo luận, nhiều đại biểu tập trung vào vấn đề đầu tư công, nợ công.
Đại biểu Đỗ Văn Vẻ (đoàn Thái Bình) cho rằng: Hiện nay, lạm phát của Việt Nam đang đứng ở mức cao. Giá cả nhiều mặt hàng tăng chóng mặt khiến đời sống người dân gặp khó khăn. Nhiều doanh nghiệp đã nộp đơn xin phá sản vì không có kinh phí để sản xuất hoặc sản xuất không có lãi. Điều này kéo theo hệ luỵ là doanh nghiệp sẽ mất thị phần, lao động không có việc làm… Theo đại biểu Đỗ Văn Vẻ, chúng ta cần phải tái cấu trúc nền kinh tế, các ngân hàng, tập đoàn, doanh nghiệp. Trong đó đưa ra những giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ để tiếp tục sản xuất; có biện pháp tạo việc làm cho lao động.
Đồng ý với quan điểm trên, đại biểu Hà Minh Huệ (đoàn Bình Thuận) cho rằng: Lạm phát tăng cao đã ảnh hưởng đến đời sống của người dân ở nông thôn và thu nhập thấp. Nhiều người từ nông thôn ra thành thị nhưng không tìm kiếm được việc làm vì nhiều doanh nghiệp ngừng hoạt động. Chính vì vậy, cần phải có những giải pháp để lạm phát giảm xuống dưới 10%, giá cả các mặt hàng hạ, tạo mặt bằng lãi suất phù hợp cho doanh nghiệp vay để duy trì, ổn định và phát triển sản xuất.
Mục tiêu mà Chính phủ đưa ra từ nay đến năm 2015 là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội. Tuy nhiên, theo đại biểu Trần Văn Minh (đoàn Quảng Ninh), thực hiện được mục tiêu này là khó khăn vì hiện nay, nợ công của Việt Nam đã lên tới 58% GDP. Việc quản lý đầu tư công còn lỏng lẻo, nhiều dự án, công trình xây dựng dàn trải, bỏ trống hoặc hoạt động không hiệu quả.
Theo đại biểu Trần Văn Minh, tại kỳ họp này, các đại biểu cần cho ý kiến để cắt giảm đầu tư công, những dự án không có hiệu quả thì cần phải ngừng đầu tư. Ngoài ra, chúng ta cần có một chính sách chặt chẽ về quản lý đất đai vì hiện nay, nhiều nguồn vốn, kinh phí của Nhà nước có liên quan đến đất đai lại rơi vào túi những cá nhân, đơn vị trục lợi.
Đại biểu Nguyễn Thuận Hữu (đoàn Bà Rịa-Vũng Tàu) nêu quan điểm: “Chúng ta cần phải cấu trúc lại nền kinh tế bằng cách giảm đầu tư công, thu hút nguồn lực đầu tư khác từ trong dân, nguồn vốn nước ngoài. Để thực hiện được điều này, cần phải có một cơ chế chính sách, hành lang pháp luật thông thoáng, tạo điều kiện cho người dân và nhà đầu tư nước ngoài đóng góp kinh tế vào những công trình, dự án công”.
Cho ý kiến về vấn đề này, đại biểu Cao Sỹ Kiêm (đoàn Thái Bình) cho rằng: Khi tái cấu trúc nền kinh tế, chúng ta cần chú trọng đến xây dựng cơ sở hạ tầng, thể chế, nguồn nhân lực chất lượng cao. Đi kèm theo đó là cần có chương trình hành động, chính sách, luật lệ cho những biện pháp đã được thực thi, ban hành.
Đại biểu Phạm Xuân Thường (đoàn Thái Bình) cho rằng: Hiện nay, đầu tư công về hạ tầng cơ sở nông thôn còn dàn trải, chưa hiệu quả, manh mún. Nhà nước cần phải xem xét lại việc đầu tư vào những dự án công, đặc biệt là công trình nông thôn sao cho hiệu quả, chất lượng./.
Kế hoạch kinh tế - xã hội còn thiếu giải pháp cụ thể  (22/10/2011)
Khai mạc Hội nghị Bộ trưởng thanh niên các nước ASEAN lần thứ VII  (22/10/2011)
Cải cách thủ tục hành chính cần cả xã hội vào cuộc  (22/10/2011)
Ấn Độ, Brazil và Nam Phi thỏa thuận tăng cường hợp tác kinh tế, thương mại và phối hợp hành động trong các vấn đề quốc tế  (22/10/2011)
“Mùa xuân Ả rập” ập vào Phố U-ôn  (21/10/2011)
Tổ chức trọng thể Lễ Kỷ niệm 50 năm Ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển  (21/10/2011)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển