Phát huy vai trò lực lượng trí thức quân đội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
TCCSĐT - Từ khi quân đội ta ra đời đến nay, đội ngũ trí thức quân đội đã phát huy tốt tính sáng tạo, lòng nhiệt tình yêu nước, lập nên bao chiến công to lớn trong các cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc. Ngày nay khi thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đưa đất nước vượt lên, lực lượng trí thức quân đội đã và đang phát huy truyền thống tốt đẹp trên mặt trận mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Ở mọi thời đại, tri thức luôn luôn “là nền tảng tiến bộ xã hội”, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt thúc đẩy sự phát triển và phồn vinh của đất nước. Vì vậy, ông cha ta đã nhấn mạnh: Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh; nguyên khí suy, thế nước yếu mà thấp kém. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta có quan điểm nhất quán coi trọng và tin tưởng vào đội ngũ trí thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc, ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế... Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện để đội ngũ trí thức phát triển ngày càng lớn mạnh, phát huy tốt vai trò phục vụ tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trí thức quân đội là một bộ phận của trí thức Việt Nam. Do yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội nhân dân, những năm qua, chúng ta đã xây dựng được đội ngũ trí thức thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau trong lĩnh vực quân sự.
Đây là lực lượng nòng cốt, đóng góp quan trọng vào sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ, kể cả thời bình cũng như thời chiến, trong chiến đấu cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong toàn quân hiện nay, số cán bộ có trình độ đại học trở lên là 81.080 người; trong đó có 21 giáo sư, 149 phó giáo sư, 1.122 tiến sĩ và 4.689 thạc sĩ. |
Nhìn chung, đội ngũ trí thức quân đội được đào tạo cơ bản, phần lớn đã trải nghiệm qua thực tiễn chiến đấu, phục vụ chiến đấu, huấn luyện, công tác; có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân; gắn bó với quân đội và nghề nghiệp; có tri thức, tiếp cận được sự phát triển của khoa học - công nghệ trong nước, khu vực và thế giới; hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Trên lĩnh vực khoa học nghệ thuật quân sự, trí thức quân đội đã tập trung nghiên cứu, giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố); nghiên cứu và hoàn thiện lý luận nghệ thuật quân sự Việt Nam trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn quân sự trí thức quân đội đã nghiên cứu, giải quyết nhiều vấn đề của thực tiễn công cuộc bảo vệ Tổ quốc đặt ra; góp phần vào việc xây dựng Cương lĩnh, đường lối chính trị, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; tích cực tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống lại các luận điệu thù địch, sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Trong lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ thuật, báo chí xuất bản, trí thức quân đội đã sáng tạo nhiều công trình, sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị về tư tưởng và nhân văn sâu sắc. Trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, công nghệ quân sự và y dược quân sự, trí thức quân đội đã nghiên cứu, giải quyết thành công nhiều vấn đề về bảo quản, sửa chữa; chủ động nghiên cứu chế tạo, cải tiến vũ khí, trang bị, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phát triển nghệ thuật quân sự, phát triển cách đánh của lực lượng vũ trang 3 thứ quân; tích cực ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật và một số công nghệ mũi nhọn, như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, công nghệ tự động hóa, công nghệ sinh học vào các hoạt động quốc phòng và quân sự. Kết quả của các công trình nghiên cứu đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, bảo đảm vũ khí, trang bị, bảo đảm sức khỏe cho lực lượng vũ trang...
Từ năm 1996 đến nay, các tập thể và cá nhân trong toàn quân đã được Chính phủ tặng 22 huân chương, 14 bằng khen; 318 tập thể và 700 cá nhân được Bộ Quốc phòng tặng bằng khen về thành tích nghiên cứu khoa học - công nghệ... |
Nhằm xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức quân đội, những năm qua, Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo các đơn vị thực hiện nghiêm mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với trí thức. Đảng ủy Quân sự Trung ương đã ra Nghị quyết số 93/NQ-ĐUQSTW về tiếp tục đổi mới công tác đào tạo cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật và xây dựng nhà trường chính quy, phục vụ cho yêu cầu của quân đội thời kỳ thực hiện công cuộc đổi mới đất nước. Trước yêu cầu sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đất nước hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ủy Quân sự Trung ương đã có Nghị quyết số 86/NQ-ĐUQSTW về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới, nhằm đổi mới toàn diện công tác giáo dục - đào tạo cán bộ quân đội. Trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, Bộ Quốc phòng đã có nhiều văn bản quy định về kinh phí cho các hoạt động, như Quyết định số 05-QĐ/BQP về thành lập Quỹ phát triển khoa học - công nghệ, Chỉ thị số 1853/CT-BQP về trích kinh phí ngành cho hoạt động khoa học - công nghệ và môi trường... Mặt khác, Bộ Quốc phòng đã chỉ đạo thực hiện các biện pháp khuyến khích các hoạt động khoa học - công nghệ, như tổ chức giải thưởng Tuổi trẻ sáng tạo khoa học - công nghệ, nhằm khuyến khích các tài năng trẻ tham gia hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật trong huấn luyện và sản xuất công nghiệp quốc phòng, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật cho hoạt động huấn luyện và tác chiến của bộ đội. Bộ Quốc phòng cũng đã giao nhiệm vụ cho các cơ quan quản lý khoa học chủ trì phối hợp với các cơ quan chức năng, tổ chức cho các tập thể, cá nhân có công trình nghiên cứu khoa học tham dự các giải thưởng khoa học do các bộ, ngành của Nhà nước tổ chức, như Giải thưởng Hồ Chí Minh, Giải thưởng Nhà nước về khoa học - công nghệ; Giải thưởng VIFOTECH... Đối với công tác thi đua - khen thưởng, Tổng cục Chính trị đã có Hướng dẫn số 188/HD-CT hướng dẫn việc khen thưởng thành tích đạt được trong lĩnh vực khoa học - công nghệ và môi trường trong quân đội.
Tuy nhiên, so với yêu cầu đặt ra, đội ngũ trí thức và công tác xây dựng đội ngũ trí thức trong quân đội còn một số mặt hạn chế, bất cập. Nhìn chung, đội ngũ trí thức trong quân đội còn mỏng; độ tuổi trung bình cao; trình độ ngoại ngữ còn nhiều hạn chế. Công tác nghiên cứu khoa học ở một số cơ quan, học viện, nhà trường chưa theo kịp sự phát triển của quân đội và đất nước; nhất là sự hạn chế về năng lực sáng tạo, khả năng vận dụng trong giải quyết những vấn đề thực tiễn quốc phòng, quân sự đặt ra. Cán bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ còn thiếu, năng lực nghiên cứu, giải quyết thực tiễn, hiệu quả ứng dụng khoa học -công nghệ còn thấp; còn thiếu nhiều chuyên gia đầu ngành giỏi với những công trình khoa học có tầm cỡ. Cán bộ giảng dạy ở các học viện, nhà trường cũng còn nhiều bất cập; một số năng lực hạn chế, việc tiếp cận sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại còn khó khăn... Nguyên nhân của những hạn chế đó có nhiều; trong đó, công tác quy hoạch, đào tạo, sử dụng đội ngũ trí thức chưa thật đồng bộ, khoa học; sự quan tâm của lãnh đạo, chỉ huy các cấp và tinh thần phấn đấu vươn lên của một bộ phận trí thức chưa cao...
Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi phải phát huy cao độ vai trò của đội ngũ trí thức nói chung và của trí thức quân đội nói riêng. Để xây dựng đội ngũ trí thức quân đội ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ đổi mới; đồng thời, phát huy tốt vai trò của họ trong nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung cơ bản sau:
Trước hết, tăng cường sự lãnh đạo, quản lý của cấp ủy và chỉ huy các cấp đối với đội ngũ trí thức. Đây là vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với việc xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức trong quân đội ta. Nghị quyết Trung ương 7 khóa X nêu rõ: “Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Đảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định”(1). Chính vì vậy, để tập trung xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức, cấp ủy, chỉ huy, chính ủy, chính trị viên các cấp cần quán triệt sâu sắc các nội dung cơ bản của nghị quyết, thấm nhuần quan điểm của Đảng, nhận thức đúng vai trò, vị trí quan trọng của trí thức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế: tập trung xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, có số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước ngang tầm với trình độ của trí thức ở các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới... Đồng thời, chú ý đánh giá đúng thực trạng đội ngũ trí thức và công tác xây dựng đội ngũ trí thức quân đội trong những năm đổi mới vừa qua, phân tích làm rõ những yếu kém và nguyên nhân; nắm vững nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, để vận dụng sát hợp vào quân đội và đơn vị.
Lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị phải tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng cho đội ngũ trí thức lập trường giai cấp công nhân; mục tiêu, lý tưởng của Đảng, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh; các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở đó, mỗi người có nhận thức đúng đắn về tình hình, nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển khoa học - nghệ thuật, khoa học - công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong giai đoạn mới, có ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong làm việc khoa học, chính quy, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu đặt ra.
Trên cơ sở phân tích sự tác động của yêu cầu củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh; những đòi hỏi đặt ra đối với đội ngũ trí thức trong quân đội, các cơ quan chức năng phải tham mưu cho Đảng ủy Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng xác định nhiệm vụ, giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức quân đội một cách khoa học; có cơ chế, chính sách tạo môi trường thuận lợi cho trí thức phát huy cao nhất năng lực trí tuệ, tính sáng tạo trong nghiên cứu khoa học; đồng thời, qua đó làm rõ chính sách trọng dụng nhân tài của Đảng và quân đội. Từ cơ chế, chính sách chung, các đơn vị cần vận dụng cụ thể vào quá trình xây dựng, phát huy vai trò đội ngũ trí thức theo đúng quan điểm của Đảng.
Trong công tác quản lý, các cấp cần chú ý đến đặc thù của hoạt động nghiên cứu khoa học để giải quyết hài hòa, đúng đắn các mối quan hệ đặt ra, nhằm bảo đảm thực hiện đúng các quy định của quân đội; đồng thời, tạo môi trường phù hợp để đội ngũ trí thức hăng say làm việc, phát huy tự do sáng tạo, cống hiến nhiều nhất cho quân đội, cho đất nước. Để thực hiện tốt điều đó, trước hết các đơn vị cần đẩy mạnh phát huy dân chủ, bảo đảm sự bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, công bằng, khách quan trong đánh giá, sử dụng; lãnh đạo, chỉ huy định kỳ tiếp xúc, lắng nghe ý kiến, đối thoại dân chủ với trí thức để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng, tiếp thu ý kiến đề xuất nhằm bổ sung kịp thời vào phương hướng lãnh đạo, kế hoạch công tác của đơn vị... Làm tốt vấn đề này sẽ vừa bảo đảm thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở, vừa tạo sự gắn bó chặt chẽ giữa tổ chức đảng, người chỉ huy với đội ngũ trí thức, theo đúng quan điểm của Đảng ta. Mặt khác, thông qua đó lãnh đạo và chỉ huy thực hiện kiểm tra việc thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước, quân đội về công tác trí thức ở cơ quan, đơn vị mình.
Thứ hai, thực hiện tốt công tác quy hoạch, tạo bước chuyển căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức quân đội. Trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ từng cơ quan nghiên cứu khoa học, các học viện, nhà trường, các đơn vị văn hóa, nghệ thuật xác định và dự báo về sự phát triển; các cơ quan chức năng giúp Bộ xác định rõ nhu cầu tổng quát, trên cơ sở đó tiến hành quy hoạch đội ngũ trí thức toàn quân cho phù hợp. Công tác quy hoạch đội ngũ trí thức phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội nhân dân vững mạnh; gắn với nhu cầu từng lĩnh vực, từng đơn vị và quy hoạch đội ngũ cán bộ các cấp, nhằm bổ sung và tạo nguồn từ thực tiễn công tác. Quy hoạch phải luôn bảo đảm tính liên tục, kế thừa và phát triển vững chắc, cả đương chức, kế cận và kế tiếp. Trong thực hiện công tác quy hoạch, cần nắm chắc các quan điểm chỉ đạo của Hội nghị Trung ương 7 khóa X, tránh quan niệm lệch lạc, một chiều; bảo đảm sự hài hòa giữa việc sử dụng cán bộ lâu năm, nhiều kinh nghiệm, tâm huyết với việc phát hiện, bồi dưỡng những cán bộ trẻ tài năng, thông qua hoạt động thực tiễn, giải quyết các nhiệm vụ.
Lực lượng nòng cốt của đội ngũ trí thức trong quân đội là các nhà khoa học, kỹ sư, bác sĩ, nhà giáo, nhà báo, văn nghệ sĩ... đang công tác ở các trung tâm, viện nghiên cứu, học viện, nhà trường, bệnh viện, các cơ quan báo chí, văn hóa, nghệ thuật,... Để nâng cao số lượng và chất lượng đội ngũ trí thức, phát huy tốt vai trò của họ trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc và xây dựng quân đội vững mạnh cần tiếp tục chỉ đạo thực hiện tốt Nghị quyết số 86/NQ-ĐUQSTW về công tác giáo dục - đào tạo trong tình hình mới. Theo đó, các học viện, nhà trường cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương thức quản lý, đánh giá chất lượng học viên... để vừa bảo đảm tốt nhu cầu về số lượng và chất lượng của các cơ quan, đơn vị, vừa bảo đảm đào tạo nhân tài cho quân đội và đất nước; mặt khác, cần tập trung nâng cao chất lượng đội ngũ các nhà khoa học trong các cơ quan, đơn vị, thông qua đẩy mạnh việc tự học tập, tự nghiên cứu; mở rộng giao lưu, hợp tác nghiên cứu khoa học với các tổ chức, các nhà khoa học trong nước và các chuyên gia đầu ngành nước ngoài.
Thứ ba, phát huy tính tích cực, sáng tạo, phấn đấu, rèn luyện của đội ngũ trí thức. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ, phấn đấu trở thành người trí thức quân đội vừa “hồng” vừa “chuyên”, mỗi người trí thức phải không ngừng phấn đấu vươn lên. Trên cơ sở vốn kiến thức đã được tích lũy trong học tập và công tác, trước yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mỗi trí thức phải tích cực tự nghiên cứu, học tập, giải quyết tốt những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra. Trong điều kiện đất nước đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, yêu cầu đặt ra càng cao và toàn diện, đội ngũ trí thức quân đội phải bằng nhiều phương thức tự học tập nâng cao trình độ của mình, cả về chuyên môn nghiệp vụ, cũng như trình độ tin học, ngoại ngữ. Cùng với quá trình đó, đội ngũ trí thức quân đội phải thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống; thực hiện tốt Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” do Đảng ta phát động. Trong cương vị công tác của mình, người trí thức phải rèn luyện nâng cao bản lĩnh khoa học, xây dựng lòng say mê, tâm huyết với khoa học, chủ động đề xuất nghiên cứu, giải quyết những vấn đề mới; nói thẳng, nói thật, bảo vệ chân lý; đồng thời, đề cao đức tính khiêm tốn, chống tư tưởng “chuyên môn đơn thuần”...
Xây dựng và phát huy vai trò của lực lượng trí thức quân đội trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, quân đội nhân dân thực sự góp phần tích cực vào việc thực hiện thắng lợi mục tiêu: sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại./.
Những biến đổi quan trọng giai đoạn 2011 - 2020 và vấn đề xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam  (18/05/2011)
Phát huy tiềm năng trí thức người Việt Nam ở nước ngoài vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế  (18/05/2011)
Đảng Cộng sản Việt Nam với xây dựng và phát huy vai trò giai cấp công nhân, nông dân và đội ngũ trí thức hiện nay  (18/05/2011)
Gỡ bỏ những rào cản để nữ trí thức phát triển  (18/05/2011)
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên