Báo cáo thẩm tra đánh giá tình hình thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2009; phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010
(Do Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội trình bày tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XII, ngày 20 tháng 10 năm 2010)
_____________
Kính gửi: Các vị đại biểu Quốc hội,
Để chuẩn bị cho Kỳ họp thứ 6 của Quốc hội, Ủy ban Kinh tế đã tổ chức phiên họp toàn thể từ ngày 21 đến 23-9-2009 tại Hà Nội để thẩm tra Báo cáo về tình hình kinh tế-xã hội năm 2009 và dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010. Tham dự phiên họp có đại diện Thường trực Hội đồng dân tộc, một số Ủy ban của Quốc hội và đại diện lãnh đạo nhiều Bộ, ngành Trung ương.
Căn cứ vào các Nghị quyết của Quốc hội, trên cơ sở Báo cáo của Chính phủ, qua làm việc với một số Bộ, ngành, địa phương, doanh nghiệp, tổng hợp ý kiến của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, qua các cuộc Tọa đàm, Hội thảo, trao đổi ý kiến với các chuyên gia kinh tế; ý kiến của các đại biểu dự họp, Ủy ban Kinh tế xin báo cáo Quốc hội một số vấn đề dưới đây:
PHẦN I
ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CÁC NGHỊ QUYẾT CỦA
QUỐC HỘI VỀ KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2009
Ủy ban Kinh tế cơ bản tán thành với các nội dung nêu trong báo cáo của Chính phủ về đánh giá tình hình kinh tế-xã hội năm 2009, đồng thời xin phân tích làm rõ thêm một số vấn đề lớn dưới đây:
I. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009
Năm 2009, nền kinh tế nước ta tiếp tục gặp những khó khăn và thách thức lớn do đồng thời phải chịu tác động của đợt lạm phát cao năm 2008 và đối mặt với cuộc suy thoái trầm trọng của kinh tế thế giới. Với đặc điểm của một nền kinh tế có độ mở cao, phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu và vốn đầu tư nước ngoài nên kinh tế nước ta chịu tác động rất lớn từ cuộc suy thoái kinh tế nghiêm trọng diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đã sụt giảm mạnh trong quý I, nhưng với sự cố gắng, nỗ lực của các cấp, các ngành, các doanh nghiệp và toàn thể nhân dân, bằng những chính sách mạnh mẽ, kịp thời và phù hợp, nền kinh tế đã dần phục hồi trong quý II và quý III. Những kết quả cụ thể trên một số mặt chủ yếu như sau:
1. Đã thực hiện và đạt được các mục tiêu chính theo Nghị quyết của Quốc hội
Thứ nhất, đã ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý. Tốc độ tăng trưởng kinh tế sau khi sụt giảm mạnh trong quý I ở mức 3,14% là mức thấp nhất từ nhiều năm nay, đã từng bước phục hồi, đạt 4,46% trong quý II, 5,76% trong quý III, dự báo có thể đạt khoảng 6,8% trong quý IV và cả năm ước đạt 5,2%.
Thứ hai, giữ ổn định các cân đối kinh tế vĩ mô của nền kinh tế: chỉ số giá tiêu dùng (CPI) cả năm ước tăng khoảng 7% (chỉ tiêu trong Nghị quyết của Quốc hội là dưới 10%); trong điều kiện suy giảm kinh tế, thu ngân sách nhà nước vẫn vượt kế hoạch (tăng khoảng 750 tỷ đồng so với dự toán); bội chi ngân sách bằng 6,9% GDP, dưới mức 7% theo Nghị quyết của Quốc hội; chính sách tiền tệ, tín dụng cơ bản ổn định, đáp ứng được nhu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh; nhập siêu được kiểm soát thấp hơn so với kế hoạch.
Thứ ba, bảo đảm an sinh xã hội, đã ban hành các chính sách hỗ trợ nông dân, học sinh. Các chính sách xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, chăm sóc người có công, đền ơn đáp nghĩa được triển khai thực hiện tốt. Tỷ lệ hộ nghèo còn khoảng 11%, giảm 1% so với chỉ tiêu trong Nghị quyết của Quốc hội; tình hình việc làm - thất nghiệp không quá nghiêm trọng: tạo việc làm mới ước đạt 1,51 triệu lao động, bằng 93,2% so với thực hiện năm 2008, đạt 88,5% kế hoạch năm; 6 tháng đầu năm, có khoảng 107 nghìn lao động bị mất việc làm, nhưng do kinh tế dần phục hồi, có trên 80% lao động mất việc làm đã tìm được việc làm mới(1). Tâm lý xã hội tích cực và đồng thuận.
2. Đã ban hành kịp thời và tổ chức thực hiện đạt kết quả các gói giải pháp kích thích kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, ngay từ tháng 12 năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 30/2008/NQ-CP với 5 nhóm chính sách cụ thể về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, trong đó có gói giải pháp kích thích kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội với quy mô khoảng 145 nghìn tỷ đồng. Các cấp, các ngành đã tập trung triển khai gói kích thích kinh tế, coi đó là chính sách trọng tâm của năm 2009 để thực hiện mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế. Ước thực hiện cả năm, quy mô tổng thể gói kích thích kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội khoảng 100.600 tỷ đồng.
Kết quả thực hiện gói kích thích kinh tế đã được báo cáo Quốc hội tại kỳ họp thứ năm như sau:
Về thực hiện chính sách hỗ trợ lãi suất, tính đến ngày 3/9/2009, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất theo các quyết định 131/QĐ-TTg, 443/QĐ-TTg và 497/QĐ-TTg đạt 418.304 tỷ đồng.
Số tiền hỗ trợ lãi suất ước thực hiện cả năm khoảng 10.000 tỷ đồng (kế hoạch là 17.000 tỷ đồng); tính đến ngày 24/9/2009, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất vay vốn lưu động là 405.000 tỷ đồng, trong đó dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước chiếm 16%, doanh nghiệp ngoài nhà nước chiếm 68%, hợp tác xã và hộ gia đình chiếm 16%.
Về thực hiện chính sách miễn, giảm, giãn thuế, tính đến 31/8/2009, có trên 125.500 lượt doanh nghiệp và khoảng 937.000 đối tượng nộp thuế thu nhập cá nhân được hưởng ưu đãi về thuế trong chương trình tổng thể nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, dự kiến cả năm số thuế được miễn, giãn, giảm khoảng 20.000 tỷ đồng (kế hoạch là 28.000 tỷ đồng).
Về thực hiện các giải pháp về vốn đầu tư phát triển, theo kế hoạch, vốn đầu tư phát triển của Nhà nước trong gói kích thích kinh tế khoảng 90.800 tỷ đồng, ước thực hiện cả năm đạt khoảng 60.800 tỷ đồng, bằng 67% kế hoạch(2).
Các khoản chi khác khoảng 9.800 tỷ đồng, trong đó tăng mua dự trữ quốc gia về gạo và xăng dầu 2.800 tỷ đồng, ứng chi để thực hiện các nhiệm vụ chi thường xuyên nhằm bảo đảm an sinh xã hội phát sinh ngoài dự toán khoảng 7.000 tỷ đồng.
3. Công tác cải cách hành chính được chú trọng và có bước tiến mới
Năm 2009, các cấp, các ngành tập trung cải cách thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước, tiếp tục đẩy mạnh công tác hoàn thiện thể chế, đơn giản hóa thủ tục hành chính. 100% các Bộ ngành và 61/63 địa phương đã công bố bộ thủ tục hành chính, đang tiếp tục rà soát và sửa đổi những thủ tục gây vướng mắc, phiền hà.
4. Giáo dục đào tạo, y tế tiếp tục được quan tâm; quốc phòng, an ninh được bảo đảm; công tác đối ngoại và hợp tác quốc tế đạt được những kết quả tích cực
Chương trình đào tạo và nâng cao chất lượng đào tạo tiếp tục được đổi mới; bố trí đủ nguồn vốn (khoảng 8.000 tỷ đồng trong năm 2009) để học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay để học tập với lãi suất thấp; hệ thống y tế tiếp tục được đầu tư nâng cấp, công tác phòng chống dịch bệnh được quan tâm...
Quốc phòng, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, nhất là các địa bàn trọng điểm. Số vụ tai nạn giao thông, số người chết, bị thương do tai nạn giao thông giảm so với những năm trước. Trên cương vị thành viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc, chúng ta đã có những đóng góp tích cực vào các vấn đề quốc tế.
Về nguyên nhân đạt được các kết quả trên, Ủy ban Kinh tế thấy rằng, bên cạnh nguyên nhân khách quan thì nguyên nhân chủ quan là yếu tố rất quan trọng, đó là:
(1) Đã sớm nhận định, đánh giá tình hình một cách chủ động, thận trọng và chính xác, qua đó đã chuyển hướng chính sách kịp thời. Có thể thấy, từ cuối năm 2008, chúng ta đã sớm nhận định diễn biến tình hình, thay đổi định hướng chính sách từ chống lạm phát sang chủ động ngăn ngừa suy giảm. Từ đó đề ra gói giải pháp kích thích kinh tế và bảo đảm an sinh xã hội đồng bộ, toàn diện, nhưng có trọng tâm, trọng điểm, phù hợp với diễn biến mới và phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế nước ta.
(2) Công tác chỉ đạo, điều hành, kiểm tra, đôn đốc của Chính phủ, các cấp các ngành quyết liệt, tích cực, có kinh nghiệm hơn và có sự phối hợp, thống nhất hành động từ cấp trung ương đến địa phương. Việc thực hiện gói kích thích kinh tế và các giải pháp khác đã đạt hiệu quả tích cực, phù hợp tình hình thực tế của nước ta, là nhân tố quan trọng để đạt được mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi thời điểm khó khăn nhất do tác động của suy thoái kinh tế thế giới. Có thể thấy những tác động cụ thể của các gói kích thích kinh tế là:
(i) Việc hỗ trợ lãi suất vay vốn tín dụng 4% cùng với việc hạ dần lãi suất cơ bản từ mức cao nhất 14% năm 2008 xuống 7% (áp dụng từ tháng 2/2009 đến nay) đã làm mặt bằng lãi suất chung giảm đáng kể. Qua khảo sát thực tế, chi phí trả lãi vay ngân hàng năm 2009 của phần lớn các doanh nghiệp chỉ bằng 50% của năm 2008 (sau khi được hỗ trợ lãi suất, doanh nghiệp chỉ còn phải trả lãi suất 4-6%). Cùng với chính sách miễn, giảm, giãn thuế, chính sách hỗ trợ lãi suất đã giúp nhiều doanh nghiệp, các hộ sản xuất vượt qua khó khăn, giảm chi phí vay vốn, giảm giá thành, qua đó nâng cao sức cạnh tranh và có nhiều thuận lợi hơn trong việc tiêu thụ hàng hóa, nhất là các mặt hàng xuất khẩu(3).
(ii) Việc bổ sung 90.800 tỷ đồng vào kế hoạch vốn đầu tư phát triển của Nhà nước kích thích đầu tư, thúc đẩy tăng tiêu dùng xã hội là nhân tố quan trọng hàng đầu góp phần ngăn chặn suy giảm kinh tế và tạo điều kiện để kinh tế nhanh chóng phục hồi. 9 tháng đầu năm 2009, trong khi nguồn vốn đầu tư ngoài nhà nước chỉ tăng 12,6%, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài giảm 11,2% thì nguồn vốn đầu tư nhà nước sau khi được bổ sung gói kích cầu đã tăng 45,5% so với cùng kỳ năm 2008, góp phần đưa tổng vốn đầu tư xã hội 9 tháng đạt 483,2 nghìn tỷ đồng, tăng 14,4%. Gói kích thích kinh tế đã tạo điều kiện thuận lợi phục hồi tốc độ tăng trưởng của ngành xây dựng (ước cả năm, giá trị sản xuất kinh doanh tăng 12,1% so với năm 2008), kéo theo sự gia tăng sản lượng của ngành công nghiệp vật liệu xây dựng (tổng nhu cầu thép ước cả năm tăng trên 10%, tiêu thụ xi măng ước tăng 11% so với năm 2008).
(3) Sự năng động, sáng tạo, vượt khó của người dân và cộng đồng các doanh nghiệp, tâm lý xã hội tích cực và đồng thuận cũng là yếu tố quan trọng để đạt được kết quả tích cực về phát triển kinh tế-xã hội năm 2009.
II. Một số mặt còn hạn chế trong thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội năm 2009
Ủy ban Kinh tế thấy rằng, mặc dù nền kinh tế nước ta đã sớm thoát khỏi suy giảm, giữ được sự ổn định, tăng trưởng đạt mức khá so với nhiều nước, nhưng vẫn tồn tại không ít hạn chế. Có những mặt hạn chế đã tích tụ trong nội tại nền kinh tế, song cũng có những hạn chế mới phát sinh do tác động trái chiều của việc thực hiện các chính sách mới ban hành cũng như những bất cập trong việc tổ chức triển khai các giải pháp làm ảnh hưởng đến kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009 và năm 2010. Những mặt hạn chế đó là:
Thứ nhất, một số cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc, còn nhiều yếu tố tiềm ẩn bất ổn. Bội chi ngân sách cao trong nhiều năm trở lại đây và năm 2009 là 6,9% GDP, mức bội chi này còn chưa tính đến các khoản chi từ nguồn trái phiếu Chính phủ và một số khoản chi khác. Nợ Chính phủ tăng cao, năm 2008 khoảng 36,5% GDP, năm 2009 ước lên đến 40% GDP, năm 2010 dự kiến khoảng 44% GDP, nếu không có giải pháp quyết liệt để giảm dần bội chi ngân sách thì trong vài năm tới, nợ Chính phủ sẽ tiến dần đến mức giới hạn an toàn được cảnh báo. Tăng trưởng tín dụng khá nhanh (9 tháng tăng 29%) đã gây sức ép tăng lãi suất, sẽ dẫn đến hệ quả là tăng chi phí vốn, làm tăng giá thành sản xuất, đồng thời làm cho việc huy động vốn trái phiếu Chính phủ gặp nhiều khó khăn(4). Cán cân thanh toán tổng thể thâm hụt 1,9 tỷ đô la, dự trữ ngoại hối giảm, thị trường ngoại hối có biểu hiện căng thẳng về cung cầu ngoại tệ, gây sức ép lên tỷ giá.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế vẫn theo quy mô chiều rộng, chất lượng tăng trưởng chưa cao. Tổng mức đầu tư toàn xã hội bằng 42,2% GDP (kế hoạch là 39,5% GDP), trong khi tốc độ tăng trưởng sụt giảm chỉ còn khoảng 5,2%, chỉ số ICOR tăng lên trên 8 so với mức 6,66 của năm 2008. Dự báo năm 2009 có 7 chỉ tiêu không đạt kế hoạch: tổng kim ngạch xuất khẩu giảm 9,9%, tạo việc làm đạt 88,5% kế hoạch (kế hoạch 1,7 triệu người, ước đạt 1,51 triệu), tốc độ tăng tuyển mới đại học, cao đẳng kế hoạch 11,4%, ước đạt 9,2%, tốc độ tăng tuyển mới trung cấp chuyên nghiệp kế hoạch 15,6%, ước đạt 11,4%. Đây là những chỉ tiêu sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng và phát triển trong các năm sau.
Hiện tượng không bình thường diễn ra từ quý II năm 2009 là xuất hiện tình trạng thiếu lao động đối với những ngành nghề cần nhiều lao động như may mặc, da giày, chế biến thực phẩm, xây dựng,… nhất là ở vùng kinh tế trọng điểm phía nam, nơi có khoảng 70% lao động nhập cư từ các địa bàn trên cả nước. Trong thời điểm nền kinh tế bắt đầu hồi phục sau suy giảm, đây không chỉ là hiện tượng mất cân đối cục bộ của nền kinh tế, mà bắt nguồn từ sự thiếu đồng bộ giữa chính sách phát triển kinh tế với chính sách đào tạo nguồn nhân lực đã kéo dài trong nhiều năm.
Thứ ba, công tác quản lý xây dựng cơ bản và việc giải ngân các nguồn vốn đầu tư chậm vẫn là điểm hạn chế trong năm 2009(5):
Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước 9 tháng ước đạt 67%, trong đó vốn do địa phương quản lý mới đạt 63,5%, một số địa phương có kết quả giải ngân đạt thấp, có nơi mới đạt dưới 50%(6).
Đến tháng 9, ước thực hiện giải ngân vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt 53,4% dự toán, vốn trái phiếu Chính phủ giải ngân ước đạt 44,6% kế hoạch (so với số dự toán 36.000 tỷ đồng). Với khoản vốn trái phiếu Chính phủ trình Quốc hội cho phép phát hành bổ sung năm 2009 là 20.000 tỷ đồng thì ước thực hiện chỉ đạt 10.000 tỷ đồng (50%).
Thứ tư, nhiều ý kiến trong Ủy ban Kinh tế cho rằng, cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có xu hướng tập trung nhiều vào lĩnh vực bất động sản. Năm 2007, tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực bất động sản chỉ chiếm khoảng 25%, đến năm 2008 tăng lên 36,8%, 6 tháng đầu năm 2009 chiếm trên 60% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Với cơ cấu vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài như vậy thì sẽ không tạo ra nhiều việc làm và ít có khả năng tạo ra sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế, không đẩy mạnh được xuất khẩu.
Thứ năm, mặc dù tỷ lệ hộ nghèo đã giảm xuống còn 11% năm 2009 (từ 18,1% năm 2006, 14,75% năm 2007 và 12,1% năm 2008), tuy nhiên, kết quả giảm nghèo chưa thật bền vững. Mức chuẩn nghèo chưa được thay đổi theo Nghị quyết của Quốc hội, trong khi mặt bằng giá chung đã lên rất cao trong mấy năm vừa qua cho nên tỷ lệ hộ nghèo còn 11% là chưa phản ánh đúng thực chất. Tốc độ giảm nghèo giữa các khu vực, các vùng còn chênh lệch lớn; miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc tỷ lệ nghèo còn cao; đời sống nhân dân nhất là đồng bào dân tộc còn nhiều khó khăn(7).
Các chương trình, dự án, chính sách hỗ trợ giảm nghèo đã được chú trọng hơn nhưng chưa được lồng ghép tốt nên hiệu quả còn hạn chế. Qua giám sát tại một số địa phương cho thấy, có nhiều đầu mối quản lý các chương trình dự án này, nhưng thiếu cơ quan chỉ đạo phối hợp nên phân bổ vốn còn dàn trải, kém hiệu quả. Tình hình triển khai Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP còn lúng túng, tiến độ giải ngân vốn nhìn chung thấp (Lào Cai 5%, Ninh Thuận 5%, Nghệ An 20%,...).
Ngân sách bố trí cho Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo còn thấp, chưa đạt kế hoạch, trong 4 năm (2006-2009), ngân sách bố trí cho chương trình chỉ đạt 55,58% kế hoạch 5 năm (1.050,5 tỷ đồng/1.890 tỷ đồng).
Thứ sáu, việc triển khai thực hiện một số chính sách cụ thể trong gói giải pháp kích thích kinh tế còn có những hạn chế, vướng mắc, như: (i) khu vực nông nghiệp, nông dân được hưởng lợi từ chính sách này còn ít; (ii) có sự trùng lắp về đối tượng hỗ trợ lãi suất giữa Quyết định số 497/QĐ-TTg và Quyết định 131/QĐ-TTg, Quyết định 443/QĐ-TTg; (iii) thủ tục, điều kiện cho vay theo Quyết định số 497/QĐ-TTg chặt chẽ hơn so với vay theo cơ chế thông thường, triển khai chưa đồng bộ, dẫn đến có địa phương đạt kết quả cao, nhưng cũng có địa phương triển khai còn chậm (Ninh Thuận, Hà Nam, một số tỉnh đồng bằng sông Cửu Long).
Về thực hiện cho vay hỗ trợ lãi suất 4% theo Quyết định 131/QĐ-TTg, đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế cho rằng, gói hỗ trợ lãi suất vay vốn ngắn hạn đã hoàn thành vai trò “giải cứu” cho một bộ phận doanh nghiệp gặp khó khăn. Tuy nhiên quá trình thực hiện cũng cho thấy có những mặt hạn chế, đó là:
(1) Thực tế số doanh nghiệp được vay vốn hỗ trợ lãi suất theo Quyết định 131/QĐ-TTg không nhiều (chỉ có khoảng 20% tổng số doanh nghiệp được vay vốn hỗ trợ lãi suất). Điều này đã gây ra sự thiếu bình đẳng trong quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp và làm giảm ý nghĩa của chủ trương kích cầu.
(2) Lãi suất VND sau khi được giảm trừ 4% và lãi suất cho vay ngoại tệ gần tương đương nhau, dẫn đến nhu cầu vay VND tăng, làm mất cân đối cung cầu trên thị trường tiền tệ (VND), gây sức ép tăng lãi suất VND và tăng tổng phương tiện thanh toán, gây mất cân đối trên thị trường ngoại hối, tạo sức ép tăng tỷ giá, ảnh hưởng đến cán cân thanh toán. Ngân hàng Nhà nước đã phải can thiệp thị trường nhằm ổn định tỷ giá làm dự trữ ngoại tệ giảm.
(3) Khó kiểm soát hiệu quả thực chất của các khoản tín dụng, có ý kiến cho rằng có hiện tượng dùng vốn vay để đảo nợ, đầu tư vào chứng khoán hoặc đầu tư vào bất động sản; lãi suất tiền gửi cao hơn lãi suất cho vay nên có doanh nghiệp vay vốn hỗ trợ lãi suất thấp tại ngân hàng này và gửi sang ngân hàng khác để hưởng chênh lệch, có doanh nghiệp có vốn gửi vào ngân hàng thương mại để hưởng lãi suất cao nhưng vẫn vay vốn VND để hưởng hỗ trợ lãi suất(8)...
Hiện nay, nền kinh tế cơ bản đã vượt qua thời điểm khó khăn nhất trong khi những vấn đề phát sinh như đã phân tích ở trên đang gây rất nhiều khó khăn cho chính sách tiền tệ trong việc duy trì, bảo đảm ổn định cân đối vĩ mô của nền kinh tế, nhất là cán cân thanh toán, cung cầu tiền tệ, ổn định lãi suất và tỷ giá. Vì vậy, Ủy ban Kinh tế đề nghị cần tiếp tục thực hiện các chính sách kích thích kinh tế nhưng tập trung cho các mục tiêu trung và dài hạn, cho mục tiêu tái cấu trúc nền kinh tế,... và đề nghị nên dừng chính sách hỗ trợ lãi suất vay vốn ngắn hạn theo Quyết định 131/QĐ-TTg đúng thời hạn đã được công bố (31/12/2009).
Thứ bảy, việc tổ chức thực hiện một số luật còn chậm, làm hạn chế hiệu quả của một số luật đã được ban hành(9).
Thứ tám, quản lý khoáng sản và hoạt động khoáng sản còn có thiếu sót, hoạt động khai thác khoáng sản trái phép diễn ra ở nhiều tỉnh(10), nhất là đối với khoáng sản kim loại, cát sỏi ở lòng sông... gây mất trật tự xã hội và hậu quả khá nghiêm trọng về môi trường.
PHẦN II
PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ
KẾ HOẠCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI NĂM 2010
Ủy ban Kinh tế cơ bản tán thành với các nhận định, đánh giá tình hình năm 2010 nêu trong báo cáo của Chính phủ và cho rằng, năm 2010 là năm cuối cùng của Kế hoạch 5 năm 2006-2010, việc thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2010 có ý nghĩa rất lớn. Nhiều khả năng chúng ta sẽ đạt các chỉ tiêu xã hội trong Kế hoạch 5 năm như tỷ lệ hộ nghèo, tạo việc làm, phổ cập giáo dục trung học cơ sở, tỷ lệ trẻ em bị suy dinh dưỡng,... Tuy nhiên, trong bối cảnh kinh tế trong và ngoài nước từ nay đến hết năm 2010 vẫn còn rất nhiều khó khăn, thách thức, khả năng sẽ không thực hiện đạt kế hoạch một số chỉ tiêu chủ yếu về kinh tế và môi trường như tốc độ tăng trưởng kinh tế, tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu, tỷ lệ che phủ rừng, tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý(11),... Kết quả thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội năm 2010 một mặt ảnh hưởng đến khả năng hoàn thành Kế hoạch 5 năm theo Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, mặt khác còn là yếu tố quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm tới.
I. Về mục tiêu tổng quát
Xuất phát từ đánh giá về những kết quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và những vấn đề mới phát sinh của năm 2009 sẽ gây khó khăn đến ổn định cân đối vĩ mô, ảnh hưởng đến phát triển trong những năm tiếp theo, Ủy ban Kinh tế thấy rằng, năm 2010 cần tập trung nỗ lực thúc đẩy quá trình phục hồi kinh tế và thực hiện một chương trình tổng thể cấu trúc lại nền kinh tế theo hướng nâng cao sức cạnh tranh, khắc phục những hạn chế, yếu kém của cơ cấu kinh tế, tạo bước khởi đầu vững chắc hơn cho việc xây dựng và triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011-2015. Vì vậy, Ủy ban Kinh tế đề nghị xác định mục tiêu tổng quát năm 2010 cần đặt trọng tâm vào mục tiêu giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô; ngăn ngừa lạm phát cao; duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý gắn với mục tiêu nâng cao chất lượng tăng trưởng, tạo tiền đề thúc đẩy tăng trưởng cao hơn trong các năm tiếp theo.
II. Về các chỉ tiêu kinh tế - xã hội chủ yếu
- Về tốc độ tăng trưởng kinh tế, Chính phủ dự kiến chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2010 khoảng 6,5%.
Một số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế cho rằng, với triển vọng phục hồi kinh tế thế giới như đã phân tích, cùng với dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế quý IV năm 2009 đạt trên 6,5% thì tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2010 có thể đạt 6,5-7%. Nhiều ý kiến trong Ủy ban cho rằng, nếu tốc độ tăng trưởng kinh tế quý IV năm 2009 đã đạt 6,8% cùng với tác động của các chính sách kinh tế đã thực hiện trong năm 2009, tăng trưởng kinh tế cả năm 2010 có thể đạt ở mức cao hơn. Tuy nhiên, chất lượng tăng trưởng kinh tế là vấn đề cần được quan tâm nhiều hơn. Trong điều kiện các cân đối vĩ mô tuy ổn định nhưng chưa vững chắc, hiệu quả đầu tư chưa được cải thiện thì không nên quá tập trung vào tăng tốc độ tăng trưởng mà nên chú trọng đến chất lượng tăng trưởng, dành nguồn lực ưu tiên đầu tư cho các mục tiêu xã hội. Do vậy, đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế nhất trí đề nghị tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2010 là 6,5%.
- Về chỉ số giá tiêu dùng, trong Ủy ban Kinh tế có hai loại ý kiến:
Một số ý kiến nhất trí chỉ tiêu chỉ số giá tiêu dùng tăng khoảng 7% như đề xuất của Chính phủ vì cho rằng, kinh tế thế giới trong năm 2010 sẽ vẫn tiếp tục còn nhiều khó khăn. Quá trình phục hồi kinh tế diễn ra chậm và còn nhiều bất ổn định. Nhiều quốc gia phải tập trung vào tái cơ cấu nền kinh tế. Do vậy, tổng cầu trong năm 2010 không tăng cao và giá cả trên thị trường thế giới vẫn tiếp tục ở mức thấp hoặc tăng nhẹ, vì thế sẽ không gây biến động lớn đến chỉ số giá tiêu dùng ở Việt Nam.
Đa số ý kiến thành viên Ủy ban Kinh tế cho rằng, chỉ số giá tiêu dùng tháng 9 tăng 0,62% và dự kiến cả năm 2009 tăng 7%, mặc dù chưa có biến động lớn về giá cả, tuy nhiên sẽ có một số nhân tố tác động gây sức ép tăng chỉ số giá tiêu dùng năm 2010 cao hơn năm 2009, đó là: (i) giá cả trên thị trường quốc tế sẽ có xu hướng tăng cao hơn năm 2009 do tác động của phục hồi kinh tế; (ii) nhu cầu trong nước sẽ tăng cao hơn trong năm 2010, đặc biệt là do tác động của gói kích thích kinh tế và thực hiện chính sách tiền tệ, sự gia tăng tín dụng, chính sách tài khóa nới lỏng trong năm 2009 sẽ làm sức ép lạm phát năm 2010 cao hơn năm 2009. Bởi vậy, để chủ động hơn cho công tác chỉ đạo điều hành, đề nghị chỉ tiêu chỉ số giá tiêu dùng năm 2010 tăng không quá 8%.
- Về chỉ tiêu tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu, đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế cho rằng, sự sụt giảm giá trị xuất khẩu năm 2009 chủ yếu do tác động của sự giảm giá (riêng yếu tố giảm giá trong 9 tháng đầu năm 2009 làm kim ngạch xuất khẩu giảm trên 6 tỷ USD), còn khối lượng nhiều hàng hóa xuất khẩu chủ yếu của nước ta trong năm 2009 vẫn tăng (bình quân khoảng 10%). Năm 2010 với triển vọng phục hồi kinh tế, nhu cầu và giá của nhiều hàng hóa trên thế giới có xu hướng tăng, xuất khẩu của nước ta sẽ có triển vọng khá hơn. Với mức dự báo tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 tăng 6% thì thực chất chỉ tăng 3,5 tỷ đô la so với số thực hiện năm 2009. Đây là mức tăng còn thấp, do đó Ủy ban Kinh tế đề nghị chỉ tiêu tốc độ tăng tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2010 là 8-10%.
- Về bội chi ngân sách nhà nước, Chính phủ đề nghị mức bội chi ngân sách nhà nước năm 2010 là 125,5 nghìn tỷ đồng, tương đương 6,5% GDP. Đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế cho rằng, về số tuyệt đối thì bội chi tăng thêm gần 10 nghìn tỷ đồng so với năm 2009, là mức tăng khá lớn; mặc dù tỷ lệ bội chi dự kiến giảm từ mức 6,9% GDP năm 2009 xuống 6,5% GDP năm 2010, nhưng vẫn vượt xa so với mức giới hạn cho phép (5% GDP). Nếu bội chi ngân sách tiếp tục tăng cao nhiều năm thì sẽ ảnh hưởng đến các cân đối vĩ mô khác. Do vậy, cần duy trì các biện pháp tăng thu ngân sách, triệt để tiết kiệm chi và đề nghị mức bội chi ngân sách năm 2010 không quá 6% GDP và cần có kế hoạch cụ thể để giảm bội chi ngân sách nhà nước dưới 5% GDP trong các năm sau.
- Về các chỉ tiêu xã hội, môi trường, Uỷ ban Kinh tế thấy rằng, một số chỉ tiêu đã đạt và vượt kế hoạch 5 năm 2006-2010, vì vậy, cần tập trung nguồn lực cho các chỉ tiêu chưa đạt kế hoạch, nhất là các chỉ tiêu về môi trường. Đề nghị nghiên cứu và tính toán toàn diện để xem xét, quyết định các chỉ tiêu về xã hội, môi trường phù hợp với đề xuất về các chỉ tiêu kinh tế nêu trên.
III- Về một số nhóm giải pháp trọng tâm năm 2010
Với việc xác định mục tiêu tổng quát và một số chỉ tiêu chủ yếu như đã nêu ở trên, đồng thời xác định năm 2010 là năm tạo tiền đề để xây dựng và thực hiện kế hoạch 5 năm 2011-2015, Ủy ban Kinh tế tán thành với nhiều giải pháp trong Báo cáo của Chính phủ, đồng thời nhấn mạnh cần quan tâm thực hiện một số nhóm giải pháp sau:
(1) Tiếp tục thực hiện chính sách kích thích kinh tế một cách hợp lý, có sự điều chỉnh thích hợp cả về phương thức và đối tượng theo hướng tập trung cho các mục tiêu trung và dài hạn, như tái cấu trúc nền kinh tế, đầu tư hạ tầng cơ sở, đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường để phục vụ cho việc phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng của nền kinh tế; phát triển thị trường nội địa; khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh.
(2) Tập trung bảo đảm các cân đối vĩ mô quan trọng. Ủy ban Kinh tế thấy rằng, các cân đối kinh tế vĩ mô tuy được duy trì ổn định nhưng thiếu tính vững chắc và trong năm 2009 đã phát sinh nhiều yếu tố tiềm ẩn rủi ro. Vì vậy, đề nghị cần điều hành chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa một cách thận trọng, linh hoạt với các giải pháp hướng tới cân bằng cán cân thanh toán, duy trì lãi suất và tỷ giá hợp lý để đẩy mạnh sản xuất, khuyến khích xuất khẩu và duy trì dư nợ Chính phủ trong giới hạn an toàn, có tính đến mục tiêu dài hạn.
(3) Cần nghiên cứu, đánh giá một cách sâu sắc, toàn diện thực trạng kinh tế trên cơ sở phân tích lợi thế so sánh của nền kinh tế, đặt trong tiến trình hội nhập ngày một sâu rộng vào kinh tế toàn cầu để xây dựng phương án điều chỉnh tái cấu trúc nền kinh tế, trong đó cần quan tâm đến các vấn đề lớn như: lựa chọn mô hình tăng trưởng; định hướng xây dựng và phân bổ nguồn lực cho các vùng kinh tế trọng điểm, làm đầu tàu cho toàn bộ nền kinh tế; thứ tự ưu tiên phát triển ngành, lĩnh vực để vừa bảo đảm đầu tư tập trung, vừa phát huy tính tự chủ của nền kinh tế, vừa phát huy lợi thế so sánh của Việt nam tạo ra một vị trí thích hợp khi tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu,…
(4) Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản. Hàng năm, ngoài nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung còn có lượng vốn khá lớn bố trí theo các chương trình mục tiêu và các khoản hỗ trợ khác(12), Ủy ban Kinh tế đề nghị cần lồng ghép các chương trình mục tiêu, dự án đầu tư theo hướng tăng cường phân cấp, đề cao vai trò trách nhiệm của chính quyền các địa phương và sự kiểm tra, giám sát của các ngành ở Trung ương để tập trung nguồn vốn đầu tư, khắc phục tình trạng bố trí phân tán, dàn trải các nguồn vốn, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao đi đôi với cải thiện về chất lượng tăng trưởng, phát triển bền vững.
(5) Tiếp tục đẩy mạnh công tác đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, đẩy nhanh tiến độ để hoàn thành việc cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
(6) Ban hành định hướng chính sách, quy hoạch chung về thu hút đầu tư nước ngoài của cả nước dựa trên lợi thế cạnh tranh và chiến lược phát triển dài hạn của nền kinh tế, khắc phục tình trạng cục bộ, địa phương trong thu hút đầu tư.
(7) Có chính sách, giải pháp cụ thể để vừa tăng sản lượng và giá trị xuất khẩu, vừa phát triển, khai thác tốt thị trường nội địa; định hướng cho các doanh nghiệp mở rộng sản xuất và lưu thông hàng hóa, phát triển thị trường xuất khẩu, định hướng các sản phẩm cho thị trường nội địa, có chính sách với các nông sản như lúa, cà phê, thủy hải sản... để nông dân sản xuất có lãi.
(8) Trên cơ sở các bộ thủ tục hành chính đã công bố, cần tiếp tục rà soát các văn bản, đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính, tạo sự chuyển biến thực chất về thủ tục hành chính.
(9) Tăng cường công tác quản lý tài nguyên khoáng sản, thanh tra, kiểm tra và giám sát chặt chẽ hoạt động khoáng sản, bảo đảm sử dụng tiết kiệm, hiệu quả nguồn tài nguyên khoáng sản trước mắt và lâu dài.
Kính thưa các vị đại biểu Quốc hội,
Trên đây là Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế về đánh giá tình hình thực hiện các Nghị quyết của Quốc hội về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2009; phương hướng, nhiệm vụ Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010, kính trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến.
(1) Trích báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và xã hội ngày 19/8/2009.
Theo dự báo hồi đầu năm của Bộ Lao động, Thương binh và xã hội, khoảng 150.000 người sẽ bị mất việc làm trong năm 2009; còn theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO), con số này là 300.000 người.
(2) Tạm hoãn thu hồi 3.400 tỷ đồng vốn đầu tư XDCB ứng trước năm 2009; ứng trước 18.200 tỷ đồng vốn ngân sách để thực hiện một số nhiệm vụ đầu tư quan trọng, cấp bách; chuyển nguồn vốn đầu tư kế hoạch năm 2008 sang năm 2009 là 29.200 tỷ đồng, giải ngân vốn trái phiếu Chính phủ được bổ sung thêm cả năm ước khoảng 10.000 tỷ đồng.
(3) Qua khảo sát thực tế, cơ chế hỗ trợ lãi suất có tác động giảm chi phí vay vốn ở Thành phố Hồ Chí Minh là 36,6%, ở Thừa Thiên-Huế là 30%; 45,8% số doanh nghiệp ở Đà Nẵng được vay vốn hỗ trợ lãi suất đã giảm giá bán sản phẩm.
(4) Nhiệm vụ huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ năm 2009 là 126.000 tỷ đồng, 9 tháng đầu năm mới thực hiện huy động được 20.870 tỷ đồng.
(5) 6 tháng đầu năm có 4.128 dự án của các ngành và địa phương vi phạm các quy định về quản lý đầu tư như: chậm tiến độ, chất lượng thấp, có lãng phí,…
(6) Hà Tĩnh mới đạt 24,4%, Khánh Hòa: 40,9%, Bình Dương: 49,7%, Hòa Bình: 50,2%, Thành phố Hồ Chí Minh: 53,9%, Vĩnh Long: 55,1%.
(7) Tỷ lệ hộ nghèo của Cao Bằng là 31%, Lào Cai: 23%, Thanh Hóa: 19%,…
(8) Trích báo cáo số 7446/BC-BKH của Bộ KH&ĐT ngày 29/9/2009 và báo cáo số 105/BC-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày 24/9/2009.
(9) Chậm ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành việc cấp một loại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; quy trình, thủ tục đầu tư xây dựng cơ bản được sửa đổi, bổ sung trong Luật xây dựng, Luật đấu thầu...
(10) Theo Báo cáo số 188/BC-BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 13/10/2009: thực tế kiểm tra (tháng 5 năm 2009) của Bộ Tài nguyên và Môi trường cho thấy hoạt động khai thác khoáng sản trái phép vẫn còn diễn ra tại nhiều tỉnh. Có tới 08/16 tỉnh, thành phố đã kiểm tra vẫn còn các điểm khai thác trái phép.
(11) Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm dự kiến 6,9%, kế hoạch là 7,5-8%; tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa bình quân 5 năm dự kiến 13,1%, kế hoạch là 16%; tỷ lệ che phủ rừng đến năm 2010 dự kiến 40%, kế hoạch 42-43%; tỷ lệ cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng được xử lý dự kiến đến năm 2010 là 70%, kế hoạch là 75%,...
(12) Ở địa phương, có nơi nguồn vốn bố trí theo các chương trình mục tiêu và các khoản hỗ trợ khác gấp 2-3 lần vốn đầu tư xây dựng cơ bản tập trung.
Báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân  (20/10/2009)
Phụ nữ ngày càng khẳng định "chỗ đứng" của mình trong xã hội  (20/10/2009)
Chính sách bảo đảm an sinh xã hội cho phụ nữ ở Nhật Bản  (20/10/2009)
Ghi nhận công tác phụ nữ ở quận Hoàng Mai  (20/10/2009)
Sử dụng nước sạch với phụ nữ nông thôn - vẫn chỉ là mơ ước?*  (20/10/2009)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm