Chính sách bảo đảm an sinh xã hội cho phụ nữ ở Nhật Bản
TCCS - Thống kê của Chính phủ Nhật Bản cho thấy, năm 2008, dân số của quốc gia này xấp xỉ 130 triệu người. Trong đó có 62,35 triệu nam, 65,60 triệu nữ. Làm thế nào để bảo đảm quyền và lợi ích cho phụ nữ trong thế kỷ XXI đang là một vấn đề mà Chính phủ Nhật Bản hết sức quan tâm. Một trong những giải pháp quan trọng của Chính phủ Nhật Bản là từng bước kiện toàn hệ thống an sinh xã hội, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho phụ nữ trong mọi lĩnh vực y tế, việc làm...

Hệ thống an sinh xã hội Nhật Bản
Năm 1950, Chính phủ Nhật Bản xây dựng và hoàn thiện Hệ thống an sinh xã hội. Hệ thống này có vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Nhật Bản. Mục đích của nó là để hỗ trợ một phần kinh phí cho những người có hoàn cảnh đặc biệt; cung cấp các dịch vụ bảo hiểm y tế; bảo đảm phúc lợi cho người cao tuổi, người tàn tật và trẻ em lang thang cơ nhỡ, đồng thời trợ cấp xã hội cho những người có mức sống thấp hơn mức quy định. Như vậy, có thể thấy, nhiệm vụ của Hệ thống an sinh xã hội Nhật Bản là chăm sóc y tế (quan tâm đặc biệt đến chế độ thai sản cho phụ nữ); bảo vệ quyền lợi cho những người về hưu và hỗ trợ các dịch vụ phúc lợi xã hội khác cho toàn dân.
Xã hội truyền thống của Nhật Bản đề cao chủ trương “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”, người chồng đi làm kiếm tiền nuôi gia đình, người vợ đảm đương các công việc trong gia đình như nuôi dạy con cái, chăm sóc cha mẹ già. Tuy nhiên, sau khi xã hội Nhật Bản chuyển từ nông nghiệp cận đại sang xã hội công nghiệp và trình độ của người phụ nữ ngày càng được nâng cao, phụ nữ Nhật Bản ngày càng có nhiều cơ hội tham gia vào các công việc xã hội nhiều hơn.
Vài năm gần đây, do những thay đổi về cơ cấu dân số, đặc biệt số lượng người cao tuổi ngày càng tăng khiến chi phí hằng năm dành cho y tế của Nhật Bản đã tăng mạnh, dẫn đến hiện tượng mất cân đối về tài chính ở các cơ quan bảo hiểm xã hội. Để giải quyết vấn đề trên, Chính phủ Nhật Bản đã cải cách lại Hệ thống an sinh xã hội cho phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Một trong những nội dung quan trọng của cải cách là đổi mới hệ thống tài chính nhà nước; đề ra chính sách phù hợp, khuyến khích và tạo việc làm cho người lao động; cải tiến hệ thống quản lý cán bộ hưu trí, bảo đảm thu nhập ổn định và lâu dài cho người nghỉ hưu.
Trong quá trình cải cách chế độ an sinh xã hội, Chính phủ Nhật Bản đặc biệt quan tâm tới nhóm đối tượng phụ nữ, tạo điều kiện cho họ được hưởng mọi quyền lợi sau khi sinh con, cụ thể như sau:
Bảo đảm quyền sinh sản cho người phụ nữ
Sau Chiến tranh thế giới thứ II, rất nhiều phụ nữ Nhật Bản đã tham gia tích cực vào công tác xã hội. Họ đề cao tính độc lập, tự chủ, tìm con đường phát triển riêng cho mình. Nuôi con vốn là một trở ngại lớn nhất của phụ nữ Nhật Bản trong quá trình tìm việc, đồng thời, do chi phí nuôi dạy một đứa trẻ ngày càng lớn, nên tỷ lệ sinh của Nhật Bản cũng giảm mạnh, dẫn đến tình trạng thiếu lao động và hiện tượng già hóa dân số nghiêm trọng.
Theo thống kê, năm 1975, tỷ lệ phụ nữ Nhật Bản tham gia tìm việc chiếm 35,3% trong tổng số người tìm việc trên cả nước. Đến năm 1997 là 50,4%, trong số những người phụ nữ tìm việc có 66,5% người đã lập gia đình. Những thay đổi này cho thấy, số lượng phụ nữ Nhật Bản sau khi kết hôn bỏ việc không đi làm đã giảm mạnh. Hiện nay, tỷ lệ phụ nữ sau khi kết hôn tiếp tục xin việc ở Nhật Bản đã tăng đáng kể so với trước kia.
Để giải quyết những khó khăn mà lao động nữ gặp phải trong vấn đề nuôi dưỡng, chăm sóc con cái, năm 1991, Chính phủ Nhật Bản đã đề ra Luật Nghỉ thai sản (sửa đổi năm 1995) bảo đảm quyền được nghỉ ngơi, phục hồi sức khỏe cho lao động nữ trong thời kỳ thai sản. Song song với đó, Luật Nghỉ nuôi con được ban hành năm 1992 của Nhật Bản quy định, từ tháng 4-1995, tất cả các lao động nữ khi sinh con đều được cơ quan bảo hiểm hỗ trợ một khoản tiền nuôi con nhất định, mức hỗ trợ trong thời gian nghỉ thai sản cho lao động nữ được trả bằng 60% tổng thu nhập. Sau khi hết thời gian nghỉ chế độ thai sản, người lao động nữ sẽ được hưởng thêm 25% mức thu nhập trước khi nghỉ thai sản để hỗ trợ nuôi con (từ năm 2001, mức hỗ trợ 25% này được tăng lên 40%).
Mặt khác, để giảm bớt gánh nặng cho các gia đình có con nhỏ, Luật Phúc lợi trẻ em của Nhật Bản đã đề ra nhiều chính sách nuôi dạy trẻ linh hoạt, đáp ứng nhu cầu cho các bậc phụ huynh như chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ sơ sinh, nuôi dạy trẻ trong độ tuổi mầm non, kéo dài thời gian trông trẻ, trông trẻ ban đêm, trông trẻ tạm thời... Luật Bình đẳng nam nữ ban hành vào tháng 4-2000 của Nhật Bản đã đề ra một loạt chính sách, bảo đảm cho lao động nữ vừa có thời gian cống hiến cho xã hội, vừa có thời gian chăm lo cho gia đình, tạo dựng một môi trường chăm sóc con nhỏ thoải mái. Ngoài ra, luật này cũng quy định cụ thể chế độ nghỉ nuôi con, rút ngắn thời gian lao động, lao động nữ trong thời gian nuôi con không phải đi làm đêm, đồng thời hỗ trợ việc làm cho các gia đình có mẹ đơn thân...
Thêm vào đó, Chính phủ Nhật Bản cũng thành lập một bộ phận chuyên phụ trách giải quyết các công việc liên quan đến việc làm cho người lao động nữ sau khi sinh. Khó khăn lớn nhất đối với phụ nữ sau khi sinh là nuôi dưỡng, chăm sóc con cái. Trước tình hình đó, năm 1992, Chính phủ Nhật Bản tiếp tục đề ra Luật Nghỉ thai sản và Nuôi con. Sự ra đời của luật này nhận được sự ủng hộ rộng rãi của toàn xã hội. Đó cũng là cách giảm bớt gánh nặng cho phụ nữ, tạo cơ hội việc làm cho phụ nữ sau khi sinh con.
Bảo đảm quyền lợi trong công việc cho phụ nữ
Tự lập về kinh tế là nền tảng để bảo vệ quyền lợi cho phụ nữ, phụ nữ muốn được độc lập tự chủ, trước hết là phải thoát khỏi mô hình phân công lao động truyền thống chủ yếu chỉ dựa vào nam giới. Do kinh tế phát triển, phụ nữ Nhật Bản ngày càng tỏ ra độc lập tự chủ ở công sở và chủ động hơn trong công việc của mình.
Năm 1986, Chính phủ Nhật Bản đã đề ra Luật Bình đẳng cơ hội công ăn việc làm, và sửa đổi bổ sung tháng 4-1997. Mục đích là bảo đảm bình đẳng về cơ hội cũng như đãi ngộ trong công việc giữa phụ nữ và nam giới. Đồng thời, luật này cũng quy định các đơn vị tổ chức sử dụng lao động nữ phải bảo vệ tốt nhất về sức khỏe cho phụ nữ trong thời kỳ mang thai cũng như sau khi sinh. Theo luật này, Chính phủ Nhật Bản quy định, nghiêm cấm phân biệt đối xử đối với phụ nữ trong việc tuyển dụng, bố trí công việc, thăng chức, giáo dục - đào tạo, các chương trình phúc lợi, tuổi về hưu bắt buộc, hưu trí, và bãi miễn... Chính phủ Nhật Bản sẽ cố vấn hoặc có các hình thức giúp đỡ các chủ công ty đề ra các biện pháp tích cực để xóa bỏ sự kỳ thị giữa nam và nữ nhân viên. Đồng thời, cung cấp những văn bản hành chính cần thiết liên quan đến việc thi hành các đạo luật này, yêu cầu các chủ công ty phải có biện pháp cần thiết về quản lý nhân sự để ngăn chặn tình trạng quấy rối tình dục tại công sở.
Ngoài ra, để giải quyết những mâu thuẫn trong gia đình và công việc của người lao động nữ, Chính phủ Nhật Bản đã tạo ra nhiều loại hình công việc khác nhau, rất đa dạng và phong phú như chế độ làm việc ngắn hạn, theo giờ và theo thời vụ... Mặt khác, để xây dựng quỹ phúc lợi xã hội, Chính phủ Nhật Bản đã đầu tư một khoản kinh phí lớn cho các lĩnh vực như giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe... Được sự quan tâm của chính phủ, tỷ lệ tham gia xin việc của người lao động nữ ở Nhật Bản đã có nhiều thay đổi cơ bản.
Bảo đảm quyền lợi về y tế và quyền chăm sóc cho phụ nữ
Năm 1956, Chính phủ Nhật Bản đề ra chế độ bảo hiểm y tế, đến năm 1961 đã xây dựng mạng lưới bảo hiểm y tế trên toàn quốc, với chính sách “toàn dân có bảo hiểm”. Chế độ bảo hiểm y tế hiện nay của Nhật Bản chủ yếu là bảo hiểm cho người lao động, bảo hiểm sức khỏe toàn dân (gồm những người làm việc tự do, không có công việc cố định); bảo đảm về y tế cho người cao tuổi...
Bộ Lao động Nhật Bản quy định từ ngày 10 đến 16-4 hằng năm là “Tuần Phụ nữ”, trên khắp cả nước tích cực tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ. Bộ Lao động Nhật Bản đã thông báo chi tiết cho các chủ công ty, các nhân viên và những bên liên quan về Luật Bình đẳng cơ hội công ăn việc làm cũng như nội dung sửa đổi đối với Luật Tiêu chuẩn lao động và Luật Nghỉ thai sản.
Tất cả các chi phí bảo hiểm trên đều do Chính phủ và các cấp chính quyền ở địa phương cũng như cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả. Đối với những người về hưu, nếu chưa đến tuổi được hưởng chế độ chăm sóc y tế đặc biệt cho người cao tuổi, sẽ được hưởng chế độ bảo hiểm y tế cho người về hưu.
Chế độ toàn dân được hưởng bảo hiểm y tế ở Nhật Bản đã tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ, đặc biệt là những người lao động ngắn hạn, không chính thức và nhóm phụ nữ cao tuổi đều được hưởng các chế độ an sinh xã hội của Nhà nước. Đây chính là động lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội Nhật Bản phát triển ổn định.
Hiện nay, Nhật Bản là một trong những quốc gia có tỷ lệ già hóa dân số cao nhất thế giới. Theo thống kê, năm 2005, số lượng người già ở Nhật Bản chiếm 19,6% trong tổng số dân. Ước tính, đến năm 2010, tỷ lệ này sẽ lên tới 22%, năm 2050 sẽ đạt mức 27,4%. Trong số người già của Nhật Bản, phụ nữ chiếm đa số. Một thống kê mới đây của Chính phủ Nhật Bản cho thấy, năm 2007, tuổi thọ trung bình của phụ nữ là 85,8 tuổi, trong khi đó nam giới chỉ đạt 79 tuổi. Như vậy, trong suốt 22 năm qua, tuổi thọ trung bình của người Nhật luôn cao nhất thế giới. Hiện Nhật Bản có 32.000 người trên 100 tuổi, trong đó phụ nữ có gần 28.000 người, chiếm 86%. Những con số đó đã chỉ ra rằng, vấn đề chăm sóc cho người cao tuổi là phụ nữ ở Nhật Bản đang là vấn đề nổi cộm hơn bao giờ hết.
Đối mặt với tình hình đó, Chính phủ Nhật Bản đề ra chế độ toàn dân được hưởng bảo hiểm hằng năm, trong đó đặc biệt quan tâm đến những phụ nữ cao tuổi. Chế độ này quy định, đối với phụ nữ, tất cả các chi phí về bảo hiểm mà người vợ cần chi trả đều do chồng hoặc cơ quan của chồng đóng góp và được miễn giảm một phần. Ngoài ra, do phụ nữ chiếm tỷ lệ cao, nên Chính phủ Nhật Bản đã đề ra chế độ miễn phí các dịch vụ y tế và chế độ chăm sóc gia đình cho phụ nữ. Việc thực thi chế độ bảo hiểm chăm sóc người già, đặc biệt là phụ nữ sẽ được cơ quan bảo hiểm xã hội hỗ trợ về các thiết bị và dịch vụ chăm sóc... Mặt khác, Chính phủ cũng thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo bồi dưỡng nhân viên chăm sóc người cao tuổi, nâng cao kiến thức cho họ, tạo điều kiện tốt nhất cho người già, đặc biệt là phụ nữ cao tuổi được hưởng chế độ này một cách toàn diện, hiệu quả nhất./.
Ghi nhận công tác phụ nữ ở quận Hoàng Mai  (20/10/2009)
Sử dụng nước sạch với phụ nữ nông thôn - vẫn chỉ là mơ ước?*  (20/10/2009)
Diễn văn của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng khai mạc kỳ họp thứ sáu, Quốc hội khóa XII  (20/10/2009)
Khai mạc trọng thể Kỳ họp thứ sáu, Quốc hội Khóa XII  (20/10/2009)
Ðoàn đại biểu Quốc hội Việt Nam tham dự Ðại hội đồng IPU lần thứ 121  (20/10/2009)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm