TCCS - Xác định rõ các mục tiêu cụ thể, nhiệm vụ trọng tâm, các khâu đột phá và lộ trình triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI; trên tinh thần đổi mới về cách nghĩ, cách làm, tập trung mọi nguồn lực để phát triển nền kinh tế địa phương; tạo sự đồng thuận, nhất trí cao trong nhận thức và hành động của toàn bộ hệ thống chính trị, nhân dân các dân tộc trong tỉnh, tin tưởng rằng Vĩnh Phúc sẽ phát huy được tiềm năng, thế mạnh của tỉnh, tạo đà phát triển kinh tế xã hội nhanh hơn, mạnh hơn.

1- Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong quy hoạch của 3 vùng: Vùng đồng bằng sông Hồng, Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và Vùng Thủ đô Hà Nội. Tỉnh có diện tích tự nhiên 1.231km2, dân số (năm 2015) là 1,054 triệu người.

Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc có 14 đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy, gồm 9 huyện, thành, thị ủy và 5 đảng bộ trực thuộc Tỉnh ủy, với tổng số 643 tổ chức cơ sở đảng.

Trong những năm qua, mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức, song dưới sự lãnh đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, sự chỉ đạo, điều hành linh hoạt của Ủy ban nhân dân tỉnh, sự nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh, từ một tỉnh nghèo, thuần nông khi tái lập, Vĩnh Phúc đã có những bước phát triển khá toàn diện và đạt được những kết quả quan trọng trên tất cả các lĩnh vực.

Kinh tế liên tục phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân giai đoạn 1997 - 2016 đạt 15,37%/năm; cơ cấu kinh tế đến năm 2016: Công nghiệp - xây dựng chiếm 61,97%; dịch vụ chiếm 27,78%; nông, lâm nghiệp, thủy sản còn 10,25%. Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đầu người năm 2016 đạt 72,3 triệu đồng, tương đương 3.200 USD. Thu ngân sách nhà nước đạt cao: Năm 2016, đạt 32,6 nghìn tỷ đồng, trong đó thu nội địa 29 nghìn tỷ đồng, đứng thứ hai miền Bắc sau Thủ đô Hà Nội. Môi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện; chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) được cải thiện, từ vị trí 43/63 tỉnh, thành năm 2012 lên vị trí thứ 4/63 vào năm 2015; thu hút đầu tư đạt khá, đến hết tháng 02-2017 đã thu hút được 234 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với số vốn đăng ký 3,6 tỷ USD và 663 dự án đầu tư trực tiếp trong nước (DDI) với số vốn 67,6 nghìn tỷ đồng. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội luôn được quan tâm đầu tư theo hướng đồng bộ và hiện đại, diện mạo đô thị và nông thôn có nhiều đổi mới; đến nay, toàn tỉnh có 02 huyện (Yên Lạc và Bình Xuyên) và 92 xã (đạt tỷ lệ 82,1% tổng số xã) đã được công nhận đạt chuẩn nông thôn mới.

Các lĩnh vực văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ. Vĩnh Phúc là một trong những tỉnh, thành có chất lượng giáo dục tốt nhất cả nước, là tỉnh thứ 5 của toàn quốc được công nhận đạt chuẩn phổ cập mẫu giáo 5 tuổi vào năm 2013 và đạt phổ cập tiểu học mức độ 2 năm 2014; năm 2015 tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 60%, mỗi năm giải quyết được 20.000 đến 22.000 lao động; an sinh xã hội được quan tâm kịp thời. Tình hình an ninh chính trị trên địa bàn tỉnh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm, công tác quốc phòng được chú trọng.

Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được củng cố về mọi mặt. Đảng bộ tỉnh đã tập trung tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng và chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, gắn với thực hiện Chỉ thị số
05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, đạt kết quả tích cực, tạo chuyển biến rõ rệt, từ nhận thức đến hành động, từ lời nói đến việc làm trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, thủ trưởng các cơ quan, đơn vị.

Tuy có nhiều thuận lợi và đạt được những thành tựu quan trọng, nhưng cũng không phải không có những khó khăn. Bên cạnh đó, còn một số hạn chế, yếu kém cần có giải pháp khắc phục trong thời gian tới, như tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, công tác thu hút đầu tư chưa tương xứng với tiềm năng; một số vấn đề xã hội còn gây bức xúc trong nhân dân; cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu; triển khai thực hiện các nghị quyết ở một số chi bộ, đảng bộ chưa hiệu quả, công tác cán bộ ở một số nơi có mặt còn hạn chế; hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở một số địa phương, đơn vị còn hình thức.

Mục tiêu của Vĩnh Phúc trong thời gian tới là: Nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất, kinh doanh; tăng cường sức cạnh tranh của nền kinh tế, khuyến khích khởi nghiệp, phát triển doanh nghiệp. Tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng khung đô thị và nâng cao chất lượng xây dựng nông thôn mới. Phát triển văn hóa, xã hội toàn diện; thực hiện tốt các mục tiêu an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo vệ môi trường và từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng; thực hiện việc sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức các cơ quan, đơn vị trong tỉnh theo hướng tinh gọn, hiệu quả, góp phần xây dựng hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Trên tinh thần đó, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lần thứ XVI đề ra nhiệm vụ, chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội cụ thể: Phấn đấu tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 7,5% - 8%; GRDP bình quân đầu người đạt 78 triệu đồng. Tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn đạt 2 tỷ USD. Tổng thu ngân sách trên địa bàn phấn đấu đạt 33,81 nghìn tỷ đồng, trong đó thu nội địa đạt 30,72 nghìn tỷ đồng. Thu hút vốn đầu tư: các dự án FDI đạt 250 triệu USD và các dự án DDI đạt 4 nghìn tỷ đồng, huy động vốn đầu tư toàn xã hội đạt 25,7 nghìn tỷ đồng. Gần 85% số xã đạt chuẩn nông thôn mới. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 24,5%. Tỷ lệ chất thải rắn đô thị được thu gom và xử lý: 90%; tỷ lệ chất thải rắn nông thôn được thu gom và xử lý: 70%... Một số chỉ tiêu về xây dựng Đảng: Số đảng viên kết nạp mới đạt 2.300; tỷ lệ đảng viên đủ tư cách hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt trên 85%; tổ chức cơ sở đảng hoàn thành tốt nhiệm vụ trở lên đạt trên 95%.

2- Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI đề ra, bên cạnh yêu cầu xây dựng các chính sách, cơ chế bảo đảm đúng đường lối, thì nội dung, yêu cầu mang tính quyết định, bảo đảm cho sự thành công đó được Tỉnh ủy Vĩnh Phúc xác định là đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh một cách linh hoạt, sáng tạo, chủ động trong lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp với tình hình thực tiễn của tỉnh trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết, cụ thể tập trung vào các nội dung chủ yếu sau:

Thứ nhất, đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng, cấp ủy các cấp.

Xây dựng quy chế làm việc của cấp ủy và thường trực cấp ủy theo hướng quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn; mối quan hệ công tác; chế độ và phương pháp làm việc của tập thể và cá nhân có liên quan; kịp thời sửa đổi, bổ sung quy chế làm việc cho phù hợp với hướng dẫn của cấp ủy cấp trên và tình hình thực tiễn địa phương, đơn vị mình.

Khi xây dựng và ban hành chỉ thị, nghị quyết cần chú trọng việc thực hiện đổi mới theo hướng thiết thực, ngắn gọn, dễ hiểu, tính khả thi cao; chú ý việc cân đối các nguồn lực và điều kiện để triển khai có hiệu quả. Quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo, phong cách, lề lối làm việc theo hướng dân chủ, thiết thực, sâu sát cơ sở; dành nhiều thời gian cho công tác chỉ đạo, kiểm tra tình hình thực hiện nghị quyết và tổng kết thực tiễn, chú trọng chỉ đạo thực hiện những lĩnh vực trọng tâm, những khâu đột phá, những vấn đề mới phát sinh; kịp thời chỉ đạo ban hành các cơ chế, chính sách, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc tại các cơ quan, đơn vị.

Việc tổ chức học tập, quán triệt và triển khai thực hiện nghị quyết được đổi mới phù hợp với các đối tượng; việc xây dựng chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết sát với điều kiện cụ thể của từng địa phương, đơn vị.

Thực hiện nghiêm việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình hằng năm, gắn kiểm điểm hằng năm với việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII và việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện và biểu dương những tổ chức và đảng viên tiêu biểu, đồng thời nghiêm túc xử lý những tổ chức đảng và đảng viên vi phạm các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

Tổ chức triển khai nghiêm túc việc học tập quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, đồng thời đẩy mạnh tuyên truyền, giám sát, kiểm tra thực hiện, góp phần nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức cho cán bộ, đảng viên. Trong đó, đặc biệt coi trọng thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, giảm bớt giấy tờ, hội họp để cán bộ, công chức có thời gian nghiên cứu và tổ chức thực hiện. Tăng cường xã hội hóa, áp dụng mô hình hợp tác công - tư trong một số lĩnh vực, nhất là trong các đơn vị sự nghiệp công.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy các cấp, kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, biểu dương những tổ chức đảng và đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; đồng thời phê bình, xử lý nghiêm những tổ chức đảng và đảng viên vi phạm theo quy định; thường xuyên củng cố, tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong nội bộ từng tổ chức, trước hết là tổ chức đảng và trong cả hệ thống chính trị, tạo được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị.

Thứ hai, đổi mới việc xây dựng, ban hành nghị quyết.

Xuất phát từ thực tiễn và tôn trọng thực tiễn trong xây dựng các nghị quyết. Quá trình tiến hành xây dựng, chuẩn bị nghị quyết phải dân chủ, công khai; tuân thủ chặt chẽ các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, và phân cấp quản lý hiện hành nhưng có sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo phù hợp với thực tiễn của địa phương. Tăng cường việc cụ thể hóa nghị quyết bằng các kết luận, hướng dẫn, quy chế, quy định về phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị để các địa phương dễ thực hiện. Thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quán triệt và triển khai nghị quyết, kết luận đến các cấp ủy đảng, các cơ quan, tổ chức và toàn thể cán bộ, đảng viên, tạo sự đồng thuận cao trong quá trình thực hiện.

Thứ ba, đổi mới công tác cán bộ.

Thực hiện tốt các khâu trong công tác cán bộ, trên cơ sở đó xem xét, lựa chọn và giới thiệu những đảng viên ưu tú của Đảng vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Thực hiện luân chuyển cán bộ kết hợp với bố trí cán bộ chủ chốt không là người địa phương vừa đào tạo kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn cho cán bộ, vừa khắc phục tình trạng trì trệ, cục bộ trong công tác cán bộ.

Ban Thường vụ Tỉnh ủy tiếp tục sửa đổi, bổ sung và ban hành hệ thống các văn bản về đổi mới công tác cán bộ trên tất cả các khâu: nhận xét, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ và thực hiện chính sách cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt, người đứng đầu. Có chế độ để thu hút cán bộ giỏi về công tác và gắn bó lâu dài ở các cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Thông qua đó góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị nói chung và chất lượng đội ngũ cán bộ của tỉnh nói riêng có phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và lý luận chính trị, năng lực tư duy và tổ chức thực hiện nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Thực hiện hiệu quả Chương trình kiểm tra, giám sát toàn khóa số 06-CTr/TU, ngày 29-1-2016, của Tỉnh ủy. Tổ chức thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát theo phương châm “giám sát phải mở rộng”,”kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm”. Xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với tổ chức đảng, đảng viên có sai phạm, xem xét trách nhiệm của người đứng đầu trong việc để xảy ra vi phạm ở cơ quan, đơn vị; công khai kết quả xử lý. Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát mà nòng cốt là ủy ban kiểm tra các cấp, góp phần giải quyết kịp thời những bức xúc nảy sinh. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác dân tộc, tôn giáo. Thực hiện tốt các quy định về dân chủ ở cơ sở, quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị tỉnh. Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phong trào thi đua “Dân vận khéo” gắn với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Chú trọng đổi mới và hoàn thiện phong cách lãnh đạo của tổ chức đảng, cấp ủy, tập trung vào xây dựng phong cách của người lãnh đạo và phong cách đảng viên theo phong cách Hồ Chí Minh. Đây cũng là một trong những nội dung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XI, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII gắn với thực hiện Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Quy định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư, được Tỉnh ủy Vĩnh Phúc xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời gian tới.

Thứ tư, lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Triển khai tích cực Đề án xây dựng vị trí việc làm của cán bộ, công chức, viên chức; cải cách chế độ công vụ, công chức; đánh giá, xếp loại công chức gắn với chủ trương tinh giản biên chế trong toàn hệ thống chính trị. Cụ thể hóa các nội dung và tổ chức thực hiện có hiệu quả Kết luận số 64-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương, về một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở. Chú trọng xây dựng các giải pháp đổi mới, nâng cao vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội các cấp trong giám sát và phản biện các vấn đề của xã hội. Nghiên cứu thành lập tổ chức bộ máy Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thành một tổ chức chung để giảm đầu mối, giảm biên chế và thống nhất nội dung thực hiện.

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới phương thức hoạt động, hướng mạnh về cơ sở và triển khai tốt Luật Chính quyền địa phương. Tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của hội đồng nhân dân; đổi mới nội dung, phương pháp, hình thức tiếp xúc cử tri; phát huy vai trò, trách nhiệm của đại biểu, giải quyết kịp thời các ý kiến, kiến nghị của cử tri. Nâng cao chất lượng các cuộc giám sát của hội đồng nhân dân. Ủy ban nhân dân các cấp tập trung chỉ đạo, điều hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình cải cách hành chính giai đoạn 2012 - 2020 nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính. Thí điểm thi chọn một số chức danh lãnh đạo, quản lý cấp phòng, cấp sở theo quy định của Trung ương; tiếp tục thực hiện chủ trương bố trí một số chức danh chủ chốt không phải là người địa phương.

Các cấp ủy đảng đổi mới phương thức lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc; bảo đảm điều kiện để các tổ chức chính trị - xã hội phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động; thực hiện có hiệu quả công tác tư vấn, giám sát, phản biện xã hội; tham gia đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền.

Thứ năm, đổi mới mạnh mẽ, quyết liệt hơn phương thức lãnh đạo của tổ chức đảng về việc thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh.

Những thành tựu to lớn về kinh tế - xã hội mà tỉnh Vĩnh Phúc đạt được thời gian qua xuất phát từ nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan, trong đó có nguyên nhân quan trọng là tổ chức đảng, cấp ủy các cấp rất coi trọng việc đổi mới phương thức lãnh đạo đối với xã hội, chính quyền, các loại hình doanh nghiệp, kịp thời điều chỉnh những phương thức lãnh đạo phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ. Theo đó, Tỉnh ủy Vĩnh Phúc chú trọng đổi mới việc quán triệt các nghị quyết, chỉ đạo thực hiện các chương trình, kế hoạch về các lĩnh vực kinh tế, đầu tư, sản xuất, kinh doanh; theo hướng không phổ biến dàn trải, rập khuôn mà tập trung vào các quan điểm, định hướng, mục tiêu đã đề ra và phải thực hiện bằng được. Cán bộ chủ chốt, đảng viên phải thảo luận về chương trình và kế hoạch thực hiện, trong đó phân công rõ đảng bộ, chi bộ chủ trì (hoặc làm đầu mối), đơn vị phối hợp, lộ trình và tiến độ hoàn thành, yêu cầu chất lượng; đặc biệt chỉ rõ cấp ủy viên, đảng viên là lãnh đạo chịu trách nhiệm trước cấp ủy về nội dung công việc để dễ kiểm tra, giám sát và quy trách nhiệm. Rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình công tác để xác định rõ công việc, trách nhiệm, quyền hạn của cấp ủy viên, đảng viên và người đứng đầu cấp ủy doanh nghiệp.

Tiếp tục rà soát, điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới các cơ chế chính sách cho phù hợp với quy định hiện hành và thực tế phát triển của tỉnh. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo có hiệu quả công tác rà soát các nghị quyết, các cơ chế, chính sách của tỉnh đã ban hành nhằm bãi bỏ các cơ chế, chính sách không còn phù hợp; điều chỉnh, bổ sung và xây dựng mới các cơ chế, chính sách cho phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và tình hình thực tiễn của tỉnh. Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi để thu hút vốn đầu tư.

Đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng kết hợp có hiệu quả phát triển theo chiều rộng với phát triển theo chiều sâu, chú trọng phát triển theo chiều sâu. Xác định rõ vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa 3 khu vực kinh tế: nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ; giữa các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế trong nước và kinh tế có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Gắn kết chặt chẽ các cơ chế, chính sách phát triển kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội và bảo vệ môi trường.

Tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng để thu hút các nguồn lực trong và ngoài tỉnh cho đầu tư phát triển. Đẩy nhanh tiến độ triển khai các dự án sử dụng vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) và vốn vay ưu đãi đã vận động thành công. Tăng cường xã hội hóa, huy động các nguồn vốn đầu tư ngoài ngân sách cho đầu tư phát triển. Thường xuyên rà soát các trình tự, thủ tục đầu tư; vận hành tốt cơ chế “một cửa liên thông”, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư có dự án đầu tư trên địa bàn tỉnh sớm đi vào sản xuất, kinh doanh. Tập trung thu hút đầu tư vào các lĩnh vực sản xuất sản phẩm công nghệ cao; ưu tiên các dự án có quy mô lớn, công nghệ cao, có uy tín trên thế giới, từ các tập đoàn đa quốc gia, các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, tạo ra sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, có sản phẩm xuất khẩu.

Đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 14-1-2013, của Tỉnh ủy về phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa đến năm 2020. Đồng thời, thực hiện tốt nhiệm vụ cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước và chuyển đổi một số trung tâm, đơn vị sự nghiệp có thu theo tinh thần Quyết định số 22/2015/QĐ-TTg, ngày 22-6-2015, của Thủ tướng Chính phủ, về việc chuyển đổi đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần./.