Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội vùng ven biển Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ
TCCS - Quản lý phát triển xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh là một trong những nhiệm vụ hết sức cần thiết, song hành với các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh,... nhằm góp phần hình thành một nền tảng vững chắc cho tiến trình phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây cũng là nhiệm vụ bức thiết đặt ra đối với vùng ven biển Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ hiện nay.
Một số vấn đề xã hội ở vùng ven biển Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ trong quá trình phát triển
Ngày 3-11-2022, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW, về “Phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, trong đó khẳng định: “Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại, nhất là về kinh tế biển và quốc phòng, an ninh biển, đảo của Tổ quốc”. Nghị quyết số 26-NQ/TW cũng chỉ ra: “Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ vẫn là vùng có chỉ số phát triển ở nhiều lĩnh vực thấp hơn mức trung bình cả nước. Tiềm năng, lợi thế của vùng, nhất là kinh tế biển chưa được khai thác hợp lý và phát huy hiệu quả. Quy mô kinh tế vùng còn nhỏ, GRDP bình quân đầu người thấp… Văn hóa - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển mới. Một số chỉ tiêu về giáo dục và đào tạo chưa đạt mục tiêu đặt ra. Thị trường lao động chậm phát triển, thiếu linh hoạt, tỷ lệ thiếu việc làm còn cao; chất lượng lao động và việc làm còn thấp. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ giảm nghèo chưa đạt mục tiêu đặt ra...”.
Vấn đề xã hội thường đề cập đến tình trạng xã hội, tiến trình xã hội hoặc thái độ không mong đợi, tiêu cực và có thể đe dọa đến một số giá trị hoặc lợi ích, như tính cố kết xã hội, luật pháp và trật tự xã hội, chuẩn mực đạo đức, sự bền vững của thiết chế xã hội, sự thịnh vượng của nền kinh tế hoặc tự do cá nhân(1). Do đó, các vấn đề xã hội nảy sinh mà không được giải quyết sẽ phát sinh rào cản đối với phát triển kinh tế, tạo nên căng thẳng, bất ổn xã hội, làm giảm chất lượng cuộc sống của người dân và ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển bền vững. Hơn nữa, những vấn đề xã hội sẽ xuất hiện từng lúc, từng nơi, nếu không được giải quyết một cách hiệu quả sẽ dẫn đến sự “biến dạng” xã hội và gây nên tình trạng bất ổn xã hội.
Qua gần 40 năm đổi mới, khu vực ven biển Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đã đạt được những thành tựu quan trọng trên nhiều khía cạnh, từ kinh tế, xã hội đến môi trường. Đến nay, vùng đã hình thành 11 khu kinh tế ven biển với nhiều kết cấu hạ tầng lớn, thu hút được 183 dự án cấp mới, tổng vốn đăng ký 2,13 tỷ USD(2), tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân của vùng năm 2023 đạt 5,51% và cao hơn so với tăng trưởng chung của cả nước (5,05%), bình quân đạt 75,6 triệu đồng/người, tăng 8% so với năm 2022. Bên cạnh đó, tốc độ tăng năng suất lao động xã hội đạt khoảng 5,5%, cao hơn so với bình quân cả nước (3,65%)(3). Toàn vùng có 210 đô thị, trong đó có 6 đô thị loại I (Thanh Hóa, Vinh, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn và Nha Trang), trong đó có 1 đô thị trực thuộc Trung ương); 7 đô thị loại II; 9 đô thị loại III và 23 đô thị loại IV. Theo cách tiếp cận mới về nghèo đa chiều thì năm 2022, tỷ lệ nghèo đa chiều ở vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ là 5%, xếp thứ 3 trong các vùng của cả nước. Công tác đào tạo nghề cho người lao động nông thôn bước đầu đạt được những kết quả khả quan, người lao động được đào tạo nghề không ngừng gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Qua các lớp dạy nghề đã giúp nhiều lao động ở nông thôn nâng cao kiến thức, tay nghề chuyên môn, tạo thêm việc làm, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương trong vùng. Chỉ tính riêng năm 2021, đã có 424.147 học sinh, sinh viên được tuyển mới vào các trường đào tạo nghề ở 14 tỉnh, thành phố vùng ven biển miền Trung.
Khu vực ven biển Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ là một trong những động lực chính cho sự phát triển của đất nước nói chung và vùng nói riêng nhờ sự phát triển các cảng biển gắn liền với các khu kinh tế, khu công nghiệp; trung tâm du lịch; đô thị; nuôi trồng, khai thác, chế biến hải sản, dịch vụ hậu cần nghề cá. Qua đó, cơ cấu việc làm ở các địa phương ven biển miền Trung có sự thay đổi theo hướng giảm việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản, gia tăng việc làm trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, buôn bán, dịch vụ. Một số ngành, nghề dịch vụ thiết yếu, như cắt tóc, may mặc thủ công, sửa chữa xe đạp, xe máy, xây dựng hay buôn bán nhỏ được phát triển mở rộng ở các vùng ven biển. Đặc biệt, sự phát triển của các khu công nghiệp và du lịch tại các tỉnh, thành phố: Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng, Bình Định, Khánh Hoà… đã thu hút đông đảo lực lượng lao động trẻ. Bên cạnh kết quả đó, khu vực này còn nảy sinh một số vấn đề xã hội, cụ thể như sau:
Thứ nhất, mặc dù cơ cấu việc làm ở các địa phương ven biển miền Trung có sự thay đổi theo hướng giảm việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp và thủy sản, gia tăng việc làm trong các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, song sản xuất nông nghiệp vẫn mang tính mùa vụ, thị trường bấp bênh cộng với chi phí vật tư đầu vào nông nghiệp tăng. Hơn nữa, việc hình thành và phát triển các khu công nghiệp và du lịch tại các địa phương trong vùng cũng như sức hút về cơ hội việc làm từ các đô thị lớn, như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng làm cho người nông dân không mặn mà với đồng ruộng, khiến ruộng đất dần hoang hóa, hiệu suất sử dụng đất ngày càng suy giảm, thiếu hụt lao động khu vực nông thôn, làm gia tăng chi phí, tăng tổn thất và giảm giá trị sản phẩm nông nghiệp.
Thứ hai, cùng với những lực đẩy từ khu vực nông thôn ven biển và lực hút từ thị trường nước ngoài, lực lượng lao động xuất khẩu của vùng cũng không ngừng được mở rộng, nâng cao, nhưng mức độ tập trung và lan tỏa của hiện tượng này có sự phân hóa, khác biệt giữa Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ.
Thứ ba, số hộ nghèo trên địa bàn các xã, phường trong khu vực chủ yếu thuộc diện chính sách bảo trợ xã hội, hộ người cao tuổi, mắc bệnh hiểm nghèo,… không có khả năng lao động, do vậy không có khả năng thoát nghèo. Bên cạnh đó, một bộ phận hộ nghèo, hộ cận nghèo chưa thực sự có ý thức phấn đấu tự vươn lên để thoát nghèo, nhiều hộ còn ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, của cộng đồng và bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Xu hướng nghèo hóa cũng đang diễn ra, thể hiện tính chất thiếu bền vững trong phát triển kinh tế hộ gia đình. Hiện tượng nghèo hóa này liên quan mật thiết đến yếu tố thu nhập và khả năng thích ứng của hộ gia đình trước thay đổi của môi trường sản xuất, hoàn cảnh sống và sức khỏe của bản thân.
Thứ tư, mặc dù định hướng đào tạo nghề của chính quyền các địa phương là đúng đắn, nhưng nhiều người dân chưa thực sự hiểu rõ giá trị của việc đào tạo nghề, thường chỉ nhìn thấy và hấp dẫn bởi các công việc ngắn hạn. Thêm nữa, các hoạt động đào tạo nghề ở nông thôn còn mang tính thời vụ; sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo nghề với doanh nghiệp ở địa phương, cơ quan quản lý nhà nước về dạy nghề chưa được thực hiện thường xuyên, chặt chẽ; còn thiếu cơ chế, chính sách để thu hút người lao động học nghề cũng như chưa có chính sách thu hút doanh nghiệp tham gia dạy nghề, giải quyết việc làm cho người lao động sau đào tạo. Ngoài ra, do việc tổ chức đào tạo nghề cho người lao động chưa được nghiên cứu kỹ, dẫn đến nghề nghiệp được đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu của thị trường, cho nên không ít người lao động đã được đào tạo, nhưng vẫn không tìm được việc làm. Bên cạnh đó, các địa phương trong vùng vẫn chưa huy động được sự tham gia của xã hội trong đào tạo nghề, vẫn chủ yếu dựa vào các nguồn lực của Nhà nước, trong khi nguồn kinh phí của Nhà nước còn hạn chế nên công tác này còn nhiều bất cập. Vì vậy, đa số người lao động ở các địa phương ven biển Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ sau khi được học nghề khó tìm kiếm việc làm, chủ yếu phải tự tạo việc làm, vận dụng kiến thức đã học vào phát triển kinh tế hộ gia đình.
Thứ năm, cùng với sự tăng trưởng kinh tế, tốc độ đô thị hóa nhanh chóng, gia tăng dân số trong khu vực đã và đang đặt ra nhiều thách thức về ô nhiễm môi trường, như vấn đề thu gom và xử lý chất thải, đặc biệt chất thải rắn sinh hoạt - chất thải chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng chất thải rắn phát sinh. Nguồn phát sinh chất thải rắn sinh hoạt chủ yếu từ hộ gia đình; khu vực thương mại, dịch vụ, như nhà hàng, khách sạn, siêu thị, chợ,…; khu vực công cộng, như sân bay, ga tàu, bến xe,…; cơ quan, công sở; dịch vụ vệ sinh, như quét đường, tỉa cây,…; và các hoạt động của cơ sở sản xuất(4)... Hiện nay, phần lớn bãi chôn lấp rác ở các địa phương trong vùng vẫn xử lý theo phương thức chôn lấp hở, ở nhiều địa phương, tỷ lệ bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh chỉ đạt từ 50% trở xuống, như Bình Thuận, Phú Yên, Khánh Hòa, Quảng Ngãi, đặc biệt là 2 tỉnh Bình Thuận và Phú Yên có tỷ lệ bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh rất thấp, lần lượt là 6,67% và 18,18%(5). Do đó, mùi hôi phát tán, gây ảnh hưởng đến khu dân cư xung quanh là điều khó tránh, nhất là trong những thời điểm nắng nóng vào mùa hè, rất dễ dẫn đến những xung đột xã hội. Tình trạng ô nhiễm môi trường từ hoạt động chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, khai thác, chế biến thủy sản... dẫn đến hiện tượng khiếu kiện, tập trung đông người, có nguy cơ tạo “điểm nóng” về môi trường vẫn xảy ra ở nhiều nơi và chưa được xử lý triệt để. Một số tuyến đường giao thông còn chật hẹp, chưa thuận lợi cho công tác thu gom và vận chuyển rác thải, phải trung chuyển rác đến điểm tập kết, tạo ra những “điểm đen” về môi trường.
Đây không phải là vấn đề xã hội riêng có của khu vực ven biển Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, mà nó còn tồn tại ở nhiều khu vực thành thị, nông thôn, miền núi khác. Vì thế, các vấn đề xã hội trên vừa có những nét riêng của vùng, vừa mang những đặc điểm chung của cả nước. Tất nhiên, chính ngay tại các địa phương trong vùng, do quy luật của sự phát triển không đồng đều (cả về kinh tế, năng lực quản lý, điều kiện tự nhiên…), nên những biểu hiện, quy mô, mức lan tỏa của các vấn đề xã hội cũng khác nhau.
Kịp thời giải quyết các vấn đề xã hội, nâng cao hiệu quả quản lý phát triển xã hội ở vùng ven biển Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ
Hệ thống chính sách an sinh là công cụ quan trọng để Nhà nước ổn định và phát triển xã hội theo hướng hài hòa, bền vững; giúp đỡ các nhóm đối tượng khó khăn, yếu thế nhằm bảo đảm công bằng xã hội. Để làm tốt điều này, trước hết, cần tăng cường công tác truyền thông nhằm định hướng dư luận và tăng cường nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân trong vùng. Mặt khác, cần tranh thủ các nguồn lực, bao gồm cả nguồn lực quốc tế, tăng cường hợp tác để dần xóa bỏ những “rào cản” về nhận thức và tìm kiếm, học hỏi các phương thức giải quyết các vấn đề xã hội một cách hệ thống, khoa học và hiệu quả. Từ đó, góp phần củng cố và nâng cao niềm tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội cũng như giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong khu vực.
Hai là, đa dạng hóa ngành, nghề, tận dụng thế mạnh của địa phương trong phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ để tạo thêm nhiều việc làm, giải quyết việc làm tại chỗ, thu hút người lao động tại địa phương vào làm việc tại doanh nghiệp, xí nghiệp, trang trại nhằm thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa, dịch vụ, gia tăng sự phồn thịnh cho các địa phương ven biển.
Ba là, triển khai sâu rộng mô hình liên kết giữa doanh nghiệp xuất khẩu lao động với chính quyền các cấp ở địa phương, nhất là khu vực nông thôn ven biển nhằm tuyển chọn người lao động đủ tiêu chuẩn, lý lịch rõ ràng, sức khỏe tốt, bảo đảm yêu cầu về trình độ văn hóa để đi lao động ở nước ngoài. Đối tượng tuyển chọn không chỉ là hộ nghèo như trước, mà nên hướng thêm vào lực lượng học sinh - sinh viên tốt nghiệp ra trường, có nguyện vọng đi làm việc ở nước ngoài để bồi dưỡng thêm cho sát với yêu cầu của các hợp đồng cung ứng lao động. Thực tiễn cho thấy, những năm qua, các địa phương đã chủ động phối hợp với doanh nghiệp trong xây dựng kế hoạch tuyên truyền, quy trình tuyển dụng và cung ứng lao động ở từng thị trường, bước đầu đã đạt được kết quả quan trọng.
Bốn là, chú trọng tuyên truyền nâng cao nhận thức của xã hội về vai trò của đào tạo nghề trong giải quyết việc làm, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của địa phương. Tiếp tục khảo sát về nhu cầu việc làm của người lao động, thường xuyên rà soát, tổng hợp, dự báo nhu cầu học nghề để có phương án hỗ trợ đào tạo nghề. Tăng cường gắn kết giữa đào tạo nghề với nhu cầu thị trường lao động, cũng như nắm bắt nhu cầu học nghề của người lao động trước khi tiến hành đào tạo nghề. Cần điều tra, khảo sát các nhu cầu việc làm của người lao động, để có biện pháp đào tạo nghề cho phù hợp với các đối tượng học nghề, đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp và xã hội.
Năm là, nhận thức đúng đắn, đầy đủ vai trò của hệ thống an sinh xã hội, an ninh con người trong điều kiện và bối cảnh hiện tại để “không bị động, bất ngờ” trong quản lý và giải quyết các vấn đề xã hội. Khi nghiên cứu, nắm bắt và giải quyết các vấn đề xã hội cần phải đặt trong nền tảng, bối cảnh đặc thù của vùng và các địa phương.
Sáu là, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo đảm xã hội phát triển nhanh và bền vững, thực hiện các chính sách an sinh xã hội không chỉ dừng lại ở việc giải quyết các vấn đề đã nảy sinh, hiện hữu, mà cần có tư duy, tầm nhìn chiến lược; có khả năng nghiên cứu, dự báo các xu thế, xu hướng phát sinh các vấn đề xã hội xảy ra trong tương lai, có chính sách “đi trước, đón đầu” để không rơi vào trạng thái bị động và bất ngờ. Muốn vậy, cần tăng cường công tác nghiên cứu để có cơ sở, luận chứng đưa ra các dự báo xu hướng biến đổi. Trong đó, trọng tâm là dự báo đúng và trúng các xu hướng biến đổi về cơ cấu, biến đổi xã hội trong những năm tới để xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp, giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Bảy là, tác động của biến đổi khí hậu (xâm nhập mặn, nước biển dâng, sạt lở đất,…) làm nảy sinh các vấn đề xã hội, hình thành các nhóm xã hội yếu thế mới, làm gia tăng đối tượng chịu tác động của chính sách xã hội. Do đó, cần tăng cường công tác truyền thông giáo dục, nâng cao nhận thức và trách nhiệm về bảo vệ môi trường đối với các cấp, các ngành, cho mọi tổ chức và cá nhân. Phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trên các phương tiện thông tin đại chúng. Cải thiện và nâng cao hệ thống kết cấu hạ tầng thu gom, xử lý chất thải rắn, hướng tới nâng dần tỷ lệ thu gom, xử lý, nâng cao công nghệ xử lý theo hướng hiện đại, có khả năng thu hồi cao; giảm tỷ lệ xử lý theo hình thức chôn lấp, gia tăng bãi chôn lấp chất thải rắn hợp vệ sinh.
Quản lý phát triển xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình phát triển của cả nước nói chung và khu vực ven biển Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ nói riêng là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Để bảo đảm mục tiêu phát triển bền vững thì việc quản lý các vấn đề xã hội phải phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội ở các địa phương vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ. Hệ thống chính sách xã hội, an sinh xã hội phải “tương thích” với điều kiện kinh tế - xã hội của các địa phương trong từng thời kỳ phát triển, ở mỗi lĩnh vực cụ thể./.
-------------------
(1) Xem: Jamrozik, A. và Nocella, L. The Sociology of Social Problems: Theoretical Perspectives và Methods of Intervention (Tạm dịch: Xã hội học về các vấn đề xã hội: Quan điểm lý thuyết và phương pháp can thiệp). Cambridge University Press, 1998
(2) Hà Anh: Liên kết vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ để phát triển bền vững, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 13-1-2024, https://dangcongsan.vn/kinh-te/lien-ket-vung-bac-trung-bo-va-duyen-hai-trung-bo-de-phat-trien-ben-vung-657821.html
(3) An Nhi: Đã thẩm định và trình Thủ tướng phê duyệt Quy hoạch vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, ngày 13-1-2024, https://kinhtevadubao.vn/da-tham-dinh-va-trinh-thu-tuong-phe-duyet-quy-hoach-vung-bac-trung-bo-va-duyen-hai-trung-bo-28013.html
(4) Xem: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia giai đoạn 2016 - 2020, Nxb. Dân trí, 2021
(5) Xem: Bộ Tài nguyên và Môi trường, Sđd, Nxb. Dân trí, 2021
Phát triển Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành trung tâm kinh tế biển quốc gia  (18/08/2024)
Đưa khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo thực sự trở thành động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển bền vững đất nước  (28/12/2023)
Những kinh nghiệm quý từ một số mô hình phát triển kinh tế - xã hội sáng tạo, đột phá của tỉnh Bình Dương  (25/11/2023)
Phát triển kinh tế biển: Nguồn lực tăng trưởng của tỉnh Khánh Hòa  (15/11/2023)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm