Đổi mới sáng tạo trong công tác giáo dục nghề nghiệp - nhìn từ kinh nghiệm của Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II
TCCS - Đứng trước những yêu cầu ngày càng cao của công tác giáo dục nghề nghiệp trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay, việc đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá về cơ chế quản lý và công tác đào tạo có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp.
Đổi mới cơ chế quản lý và đào tạo bám sát nhu cầu của thị trường - yếu tố mang tính sống còn với các trường nghề
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo, trước yêu cầu chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, đòi hỏi ngày càng cao của thị trường lao động, việc nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp được đặt ra bức thiết, nhất là đổi mới cơ chế quản lý các trường nghề. Người đứng đầu các cơ sở giáo dục nghề nghiệp cần có tư duy và hành động đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, nhanh nhạy nắm bắt kịp thời thời cơ, nhu cầu của xã hội để đáp ứng và bứt phá trong công tác đào tạo. Sự đổi mới của người đứng đầu dẫn dắt cả bộ máy nhà trường cùng vận hành năng động, bám sát nhu cầu của thị trường, của doanh nghiệp, thoát ly khỏi cơ chế quản lý và đào tạo cũ. Đây có thể coi là yếu tố mang tính sống còn của các trường nghề trong bối cảnh hiện nay.
Hiện nay, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp đang thực hiện các nội dung về việc đổi mới nhà trường theo hướng tự chủ. Khoản 1, Điều 25, Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2015, 2017, 2019 quy định: “Cơ sở giáo dục nghề nghiệp tự chủ trong các hoạt động thuộc các lĩnh vực tổ chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo và công nghệ, hợp tác quốc tế, bảo đảm chất lượng đào tạo theo quy định của pháp luật; có trách nhiệm giải trình trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người học và xã hội về tổ chức, quản lý hoạt động và chất lượng đào tạo của mình”. Trong thời gian qua, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt cho ba trường cao đẳng nghề của cả nước thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động, gồm: Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II, Trường Cao đẳng Công nghệ quốc tế Lilama 2, Trường Cao đẳng Nghề Quy Nhơn. Đây là bước đi mang tính đột phá trong việc giáo dục nghề nghiệp, hướng tới tạo ra mô hình mới trong quản trị nhà trường trước bối cảnh đổi mới mạnh mẽ giáo dục nghề nghiệp.
Mô hình đổi mới sáng tạo của Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II
Là một trong ba trường được Thủ tướng Chính phủ cho phép đi đầu thí điểm cơ chế hoạt động mới, Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II thực hiện việc đổi mới trong bối cảnh gặp nhiều thuận lợi và khó khăn đan xen.
Về thuận lợi, việc đào tạo lao động nghề ngày càng tuân theo quy luật cung - cầu của thị trường lao động; nhận thức của người học, xã hội về giáo dục nghề có nhiều thay đổi tích cực, được coi trọng hơn; giáo dục nghề có vị trí quan trọng trong hệ thống giáo dục quốc dân, được thống nhất về mặt quản lý nhà nước.
Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II có nền tảng và kinh nghiệm thực hiện tự chủ trong một số hoạt động; đội ngũ cán bộ, viên chức trẻ, năng động, sáng tạo, có trình độ cơ bản đáp ứng yêu cầu đào tạo. Trường đã hình thành mạng lưới doanh nghiệp liên kết chiến lược trong đào tạo, mô hình đào tạo gắn với doanh nghiệp ngày càng định hình và khẳng định hiệu quả. Quá trình cấu trúc lại mô hình tổ chức gắn với đổi mới cơ chế hoạt động, cơ cấu tổ chức được tiến hành mạnh mẽ thời gian qua, bước đầu khẳng định đây là bước đi đúng đắn, giúp nâng cao chất lượng đào tạo, định vị thương hiệu và khẳng định uy tín của nhà trường...
Về khó khăn, cơ chế, chính sách thực hiện hoạt động đổi mới chưa đồng bộ, toàn diện; khi đổi mới, nhà trường phải thực hiện nguyên tắc lấy thu bù chi để tái mở rộng hoạt động đào tạo, điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng cạnh tranh trong tuyển sinh, đặc biệt so với các trường công lập; một số cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, vẫn còn mang tư duy chậm đổi mới, lúng túng, hiệu quả thấp khi thực hiện nhiệm vụ; thiếu cơ chế đủ mạnh dành cho doanh nghiệp tham gia vào hoạt động giáo dục nghề cùng với nhà trường...
Trong bối cảnh đó, sự đổi mới sáng tạo của Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II thể hiện rõ nhất trong việc thu hút học và nâng cao chất lượng đào tạo nghề gắn với nhu cầu của học viên và yêu cầu của thực tiễn thị trường.
Một là, biến tiết học hướng nghiệp thành “giờ sản xuất”. Việc các cơ sở giáo dục nghề nghiệp tìm đến các trường cấp II, cấp III để tư vấn tuyển sinh hoặc trực tiếp tham gia hướng dẫn tiết học nghề theo quy định không còn mới mẻ. Song, sau khi kết thúc thời gian học nghề đó, học sinh phải tự tay làm ra được sản phẩm có giá trị sử dụng thì không phải cơ sở giáo dục nào cũng làm được - đó là một trong những cách làm của Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II đã chọn, nhằm thu hút học sinh đến với nhà trường. Trường đưa chương trình đào tạo nghề vào trong chương trình hướng nghiệp; phối hợp với các trường cấp II trên địa bàn và sau đó mở rộng ra các tỉnh lân cận tham gia giảng dạy cho các em học sinh. Các giáo viên của nhà trường hướng dẫn các em tự chế tác ra những sản phẩm cụ thể, thiết thực, dù rất nhỏ, như thỏi son môi, ly cocktail, lọ dầu gió, cao dán, tấm cardvisit, logo… Khi kết thúc khóa hướng nghiệp, sản phẩm của các em sẽ được triển lãm tại Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II để phụ huynh, học sinh trong, ngoài nhà trường và các doanh nghiệp tham quan, chấm điểm. Hình ảnh mô tả sản phẩm của các em sẽ được kết nối lên Facebook của nhà trường; sản phẩm nào nhận được nhiều bình chọn tích cực sẽ nhận được phần thưởng, thậm chí là học bổng do các doanh nghiệp trao. Nhờ cách làm này, năm 2019, nhà trường tuyển sinh được 1.800 học viên hệ trung cấp và cao đẳng, tăng 20% so với năm 2018. Đơn cử như tại tỉnh Phú Yên, địa phương lần đầu nhà trường trực tiếp xuống tuyển sinh, đã tuyển được hơn 100 em vào học tại trường…
Hai là, tiếp tục dẫn dắt và truyền cảm hứng. Giáo dục hướng nghiệp ở trường phổ thông hướng đến công tác phân luồng học sinh sau trung học, chỉ gắn với khâu chọn nghề, phạm vi diễn ra ở trường phổ thông và đối tượng chủ yếu là học sinh từ trung học cơ sở đến trung học phổ thông. Mục tiêu chính là hình thành hứng thú nghề, năng lực nghề và chuẩn bị cho học sinh sẵn sàng tâm lý đi vào lao động nghề nghiệp. Trong khi đó, giáo dục hướng nghiệp ở trường nghề giúp cho các em chọn được một nghề cụ thể, phù hợp; giúp các em hướng đến quá trình thích ứng nghề. Lúc này, phạm vi hoạt động sẽ diễn ra ở trường dạy nghề, doanh nghiệp, tổ chức cung ứng lao động và đối tượng chủ yếu là thanh niên tự do ở các cộng đồng dân cư, thanh niên xuất ngũ và thanh niên nông thôn trong quá trình đô thị hóa, học sinh phổ thông, học sinh học nghề, người lao động khi chuyển nghề và đổi nghề. Do đó, ngay khi học sinh được phân chính thức về lớp, nhà trường sẽ tổ chức cho các em tham gia học tập trực tiếp tại các xưởng; được tiếp xúc với những công nhân lành nghề; mời các thợ giỏi, các công nhân làm việc trực tiếp tại các cơ sở sản xuất, các giáo viên của các nghề có liên quan nói chuyện để các em hiểu rõ nghề hơn. Nhà trường cũng kết nối, đưa những công nhân giỏi làm nhiệm vụ hướng dẫn thực tập tại trường hoặc ở doanh nghiệp, thường xuyên tổ chức cung cấp thông tin về nghề. Phối hợp với các đơn vị, xí nghiệp - nơi học sinh đến thực tập - rèn ý thức làm chủ tập thể, tính kỷ luật trong lao động, tác phong công nghiệp cho các em.
Ở giai đoạn hướng nghiệp sau đào tạo, nhà trường phải nỗ lực rất nhiều trong việc kết nối với các doanh nghiệp. Việc phân phối học sinh tốt nghiệp như thời bao cấp không còn phù hợp trong cơ chế thị trường, vì thế, nếu không tự vận động, tìm kiếm và thắt chặt quan hệ với các doanh nghiệp, nhà trường sẽ khó tồn tại. Theo đó, giai đoạn này, nhà trường sẽ thông tin cho học sinh biết đặc điểm của các doanh nghiệp đang có nhu cầu tuyển dụng lao động, nhất là thông tin về chỗ làm việc còn trống và điều kiện làm việc. Phối hợp với trung tâm giới thiệu việc làm tổ chức tập huấn kỹ năng tìm việc, viết đơn xin việc, kỹ năng trình bày khi tham gia phỏng vấn trước nhà tuyển dụng cho học sinh sắp tốt nghiệp. Cung cấp cho học sinh những yêu cầu của thị trường lao động về nghề mà các em được đào tạo. Chỉ rõ cho các em thấy được những thiếu hụt trong kiến thức được đào tạo tại trường so với các kiến thức thực tế trong khi hành nghề nhằm chuẩn bị tâm thế thích nghi với nghề nghiệp. Ở giai đoạn hướng nghiệp sau đào tạo không thể thiếu hoạt động tư vấn tìm kiếm việc làm cho học sinh; định hướng cho các em học tập theo hướng liên thông giữa các cấp trình độ và các bậc đào tạo.
Ba là, không tách rời hoạt động đào tạo nghề với doanh nghiệp. Thực tế những năm gần đây, cam kết việc làm cho học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp không còn là vấn đề mới. Tuy nhiên, cam kết bằng hợp đồng với phụ huynh và học sinh, sinh viên khi 100% ra trường có việc làm như cách làm của Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II vẫn là một sự táo bạo. Để thực hiện được cam kết trên, ngoài hợp tác với các doanh nghiệp trong nước, doanh nghiệp FDI, nhà trường không ngừng mở rộng hợp tác quốc tế, giúp người học luôn được tiếp cận cái mới, hiện đại, đồng thời nâng cao khả năng ngoại ngữ cho học viên. Sự gắn bó mật thiết với doanh nghiệp được thực hiện từ khâu xây dựng chương trình, giáo trình, đến đào tạo và bảo đảm “đầu ra” cho học sinh.
Với những cách làm sáng tạo, chất lượng đào tạo của nhà trường ngày càng được nâng cao. Nhà trường tạo môi trường thuận lợi nhất để mỗi cán bộ, giáo viên được phát huy tối đa năng lực làm việc của mình; xây dựng chiến lược trong việc phát triển, chuyển đổi số mạnh mẽ, chuyển đổi dần từ đào tạo trực tiếp sang đào tạo trực tuyến, gắn với công nghệ trong đào tạo, đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Việc đổi mới luôn bám sát theo tín hiệu của thị trường và nhu cầu của người học...
Một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp
Từ thực tiễn, kinh nghiệm của Trường Cao đẳng Kỹ nghệ II, để nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp nói chung và của nhà trường nói riêng, cần triển khai đồng bộ một số giải pháp:
Một là, tổ chức khảo sát nhu cầu đào tạo và tư vấn hướng nghiệp cho học sinh, người lao động. Việc khảo sát trên có vai trò rất quan trọng, nhằm đưa việc đào tạo gắn chặt với nhu cầu của thị trường và người học, theo phương châm “đào tạo có địa chỉ”, trên cơ sở khảo sát về chất lượng, số lượng, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo… để có kế hoạch đào tạo phù hợp nhằm đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động. Đối tượng khảo sát chủ yếu là nhu cầu đào tạo lao động kỹ thuật của các doanh nghiệp, nhu cầu học nghề của học sinh phổ thông và những người lao động có nhu cầu học nghề. Khảo sát nhu cầu đào tạo là việc khó khăn, phức tạp, cần có phương pháp và quy trình thực hiện hợp lý.
Ngoài ra, việc tư vấn hướng nghiệp cho học sinh và các đối tượng khác muốn học nghề cũng là một nhiệm vụ quan trọng. Một mặt, giúp “đầu vào” có chất lượng và đủ số lượng cần thiết để tuyển sinh hằng năm; mặt khác, giúp đáp ứng được nhu cầu của các em học sinh, chọn được nghề phù hợp để học, có điều kiện phát triển được năng lực nghề nghiệp của mình, đồng thời bảo đảm số lượng, chất lượng, cơ cấu ngành, nghề phù hợp với nhu cầu phát triển nhân lực của doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động.
Hai là, xây dựng chương trình đào tạo theo mô-đun kỹ năng hành nghề. Chương trình đào tạo là yếu tố có tính quyết định đến chất lượng, đáp ứng nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động. Do vậy, cần chuyển đổi chương trình đào tạo theo mô-đun kỹ năng hành nghề để đào tạo theo “cái” mà xã hội cần, không phải đào tạo “cái” nhà trường có.
Để nâng cao năng suất lao động, các doanh nghiệp thường sử dụng lao động diện nghề hẹp, với trình độ chuyên môn hoá cao ở từng vị trí lao động, như thợ sơn, thợ làm đồng, thợ khung gầm ô tô, thợ điện ô tô... Trong khi đó, nhà trường tổ chức đào tạo dài hạn nên chưa phù hợp với yêu cầu của các doanh nghiệp và chưa nâng cao được chất lượng đào tạo. Do đó, cần xây dựng mục tiêu và thiết kế nội dung của các mô-đun kỹ năng hành nghề, với mục tiêu đào tạo cao nhất là trang bị năng lực mà học sinh phải đạt được sau khi tốt nghiệp khóa đào tạo, đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp, của người sử dụng lao động, là hành trang nghề để học sinh sau khi tốt nghiệp có cơ hội tìm được việc làm phù hợp và làm việc đạt năng suất, chất lượng theo yêu cầu của nhà sản xuất. Việc xây dựng nội dung các mô-đun kỹ năng hành nghề được thiết kế từ mục tiêu “đầu ra”, đến các nội dung đào tạo và nội dung kiểm tra đánh giá theo năng lực “đầu ra” giúp sau khi học xong, người học có thể được cấp chứng chỉ để tìm việc làm và hành nghề. Mỗi mô-đun kỹ năng hành nghề bao gồm một số tiểu mô-đun, là một hoặc một số công việc của mỗi nghề. Nội dung chương trình đào tạo của mô-đun kỹ năng hành nghề được thiết kế tích hợp giữa lý thuyết và thực hành để thực hiện từng công việc của nghề; luôn phân tích, điều chỉnh, bố trí các nội dung phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp, tổ chức sử dụng lao động.
Ba là, phát triển đội ngũ nhà giáo thích ứng cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Xu hướng nghề nghiệp trong tương lai có nhiều thay đổi trước tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0, với nhiều ngành nghề truyền thống mất đi, đồng thời có sự ra đời của nhiều ngành nghề mới, nhất là về tự động hóa, robot, trí tuệ nhân tạo… Do đó, cần nhanh chóng phát triển đội ngũ nhà giáo thích ứng với những yêu cầu đào tạo ngành nghề mới, toàn diện trên các mặt năng lực cốt lõi, năng lực chuyên môn, kỹ năng nghề, năng lực dạy học và ứng dụng công nghệ thông tin, ngoại ngữ…
Bốn là, hoàn thiện cơ chế đặt hàng đào tạo các trình độ để bảo đảm công bằng về chất lượng đào tạo giữa các trường. Việc đặt hàng đào tạo là hướng đến nâng cao chất lượng đào tạo, bảo đảm tính công bằng trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp, làm thay đổi nhận thức toàn diện trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp nói chung, từng cơ sở giáo dục nghề nghiệp nói riêng về đào tạo theo nhu cầu. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp bắt buộc phải đổi mới đào tạo phù hợp với cơ chế đặt hàng, khi đó sẽ phân tầng được chất lượng đào tạo trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp, từ đó xác định được thế mạnh của từng cơ sở giáo dục nghề nghiệp để đầu tư cải tiến các quy trình đào tạo, hỗ trợ những điểm yếu trong đào tạo, khắc phục những bất cập để dần cải thiện chất lượng giáo dục nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu phát triển nhân lực của quốc gia.
Năm là, đẩy mạnh tự chủ trong giáo dục nghề nghiệp. Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm là một xu thế tất yếu trong giáo dục nghề, tuy nhiên hiện nay vẫn còn thiếu những cơ chế, chính sách để tạo thuận lợi cho hoạt động này. Do vậy, thời gian tới, cần tiếp tục đẩy mạnh tự chủ trong giáo dục nghề nghiệp, xem đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, làm tiền đề để triển khai hệ thống các giải pháp đồng bộ nhằm khắc phục các hạn chế trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp nói chung.
Sáu là, đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý đào tạo. Hệ thống giáo dục nghề nghiệp cần có một hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, tiên tiến, hình thành môi trường giáo dục, học tập thông minh, thân thiện hướng đến người học, bảo đảm việc tiếp cận các gói đào tạo phù hợp. Đồng bộ hóa việc quản lý đào tạo từ cơ quan quản lý đến các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, người học nhằm bảo đảm kết nối liên thông trong các hoạt động đào tạo, giải quyết việc làm sau khi tốt nghiệp. Đẩy mạnh số hoá chương trình đào tạo, tài liệu học tập; thực hiện dạy học số, quản lý theo hướng số hóa, mô phỏng hóa các hoạt động đào tạo trong các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, trong quản trị nhà trường. Hình thành cơ chế khuyến khích và bắt buộc cán bộ, giáo viên, học sinh ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, học tập, nghiên cứu./.
Phát huy những kết quả đạt được, đẩy mạnh đổi mới, sáng tạo, đưa tỉnh Yên Bái phát triển nhanh, bền vững  (21/08/2021)
Tỉnh Lào Cai hiện thực hóa lời dạy của Bác Hồ về đổi mới sáng tạo, vươn lên trở thành tỉnh phát triển của cả nước  (09/08/2021)
Hà Nội đẩy mạnh phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo  (05/08/2021)
Hà Nội phát triển quyền sở hữu trí tuệ, hỗ trợ đổi mới sáng tạo  (30/06/2021)
Quảng Bình đổi mới, sáng tạo trong công tác cán bộ  (11/05/2021)
Doanh nghiệp Việt Nam nỗ lực sáng tạo trong giai đoạn COVID-19  (03/03/2021)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển