“Dân giàu, nước mạnh” - Giá trị và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
TCCS - “Dân giàu, nước mạnh” là giá trị và mục tiêu của phát triển đất nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu này phù hợp với nguyện vọng và mong muốn của mọi tầng lớp nhân dân. Đây là mục tiêu tốt đẹp, tập hợp trí tuệ và sức mạnh của nhân dân, động viên nhân dân xây dựng chủ nghĩa xã hội, phát huy tính tích cực và tự giác của nhân dân trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
“Dân giàu, nước mạnh” - Nguyện vọng tha thiết, cháy bỏng của mọi tầng lớp nhân dân
“Dân giàu, nước mạnh”, một mặt, là thể hiện sự tăng lên, đầy đủ, sung túc về vật chất, tiến bộ kinh tế, giảm đói nghèo trên phạm vi cả nước và mỗi cá nhân; mặt khác, biểu thị trạng thái hạnh phúc. Đây không đơn thuần là sự giàu có về vật chất, mà còn đi liền với khả năng phát triển thể chất, tâm lý và xã hội; không chỉ thể hiện việc sinh sống đơn thuần, mà còn thể hiện khả năng tham dự vào đời sống xã hội của mỗi cá nhân. Khía cạnh xã hội và tâm lý của khái niệm “dân giàu, nước mạnh” quan trọng không kém so với khía cạnh vật chất. Bởi, bên cạnh những nhu cầu vật chất, con người cần có nhu cầu tinh thần, các mối quan hệ gia đình, bạn bè, cộng đồng và mục đích sống, góp ích cho xã hội và qua đó, góp phần xây dựng một xã hội đáng sống. Việc bảo đảm những điều kiện vật chất tối thiểu là hết sức cần thiết đối với cuộc sống của con người; song, con người cũng có quyền được có việc làm và được sống khỏe mạnh. Do đó, “dân giàu, nước mạnh” có nghĩa là đem lại đời sống vật chất dồi dào, đời sống tinh thần phong phú thực sự cho mỗi cá nhân và toàn xã hội. Dân có giàu thì nước mới mạnh và ngược lại.
Nhân dân Việt Nam, từ thuở xa xưa, đã mơ ước một cuộc sống sung túc về vật chất, phong phú về tinh thần, các quan hệ xã hội hài hòa, nhưng do là một nước thuần nông nghiệp và phương thức sản xuất còn lạc hậu, cuộc sống vật chất của đại đa số người dân chưa đầy đủ, nên đời sống tinh thần còn nghèo nàn. Bước vào thời cận đại, cùng với tư tưởng duy tân của các chí sĩ yêu nước, các trí thức Việt Nam đã tham khảo các biện pháp làm cho đất nước trở nên giàu mạnh, từ mục tiêu “khai dân trí” cho đến việc phát triển công nghiệp, lập các hội khoa học truyền bá tư tưởng duy tân,… Song, tất cả đều không thành công, do chưa có một hệ tư tưởng tiên tiến, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh nước ta lúc đó bị thực dân Pháp xâm lược, là nước thuộc địa nửa phong kiến.
Bối cảnh đó đã đặt nhân dân Việt Nam đứng trước yêu cầu giành độc lập dân tộc và giải phóng đất nước, giải phóng con người, thực hiện công cuộc xây dựng đất nước giàu mạnh. Lịch sử đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo nhân dân đoàn kết đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước ngày càng ấm no, hạnh phúc. Từ ngày thành lập Đảng 3-2-1930, trải qua 15 năm gian khổ đấu tranh chống thực dân Pháp và sự can thiệp của các nước đế quốc, năm 1945, Việt Nam trở thành quốc gia độc lập, do nhân dân làm chủ, có Đảng Cộng sản lãnh đạo. Sau khi trở thành đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đoàn kết, lãnh đạo nhân dân, phục hồi và phát triển kinh tế, thực hiện chuyển biến toàn diện xã hội, phát triển đất nước.
Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn độc lập dân tộc với tự do, hạnh phúc và sự giàu có của nhân dân. Theo Người, “1. Làm cho dân có ăn; 2. Làm cho dân có mặc; 3. Làm cho dân có chỗ ở; 4. Làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập”(1). Người còn nói, độc lập mà dân không đủ ăn, đủ mặc thì độc lập ấy không có nghĩa gì. Phát biểu tại phiên họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc ngày 10-1-1946, Người nhấn mạnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(2). Suốt cuộc đời Người phấn đấu cho độc lập dân tộc và hạnh phúc, ấm no của nhân dân: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”(3).
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế là đúng đắn, sáng tạo. Theo đó, sau 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới”(4), từng bước đạt tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”.
“Dân giàu, nước mạnh” - đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
“Dân giàu, nước mạnh” - tức là đời sống nhân dân giàu có, xã hội phát triển tốt đẹp, thực lực tổng hợp quốc gia lớn mạnh. Giá trị “dân giàu, nước mạnh” yêu cầu chúng ta lấy sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, đề cao mức sống bình quân của nhân dân trở thành mục tiêu chủ yếu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nội hàm của “dân giàu, nước mạnh” bao gồm những đặc trưng cụ thể sau:
Giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa xã hội cần có lực lượng sản xuất phát triển, tạo điều kiện cho nhân dân có mức sống cao về đời sống vật chất và phong phú về đời sống tinh thần. Chế độ xã hội chủ nghĩa ưu việt ở việc phát triển lực lượng sản xuất xã hội, cải thiện đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Qua 35 năm đổi mới, Việt Nam đã bước đầu thực hiện được mục tiêu trên con đường phát triển đất nước, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hướng tới sự giàu có của toàn thể nhân dân. Đây chính là điểm đặc sắc và là bản chất của chủ nghĩa xã hội.
Kiên trì đường lối phát triển liên tục, hài hòa và lành mạnh. Yêu cầu đặt ra là chúng ta cần khai thác các tiềm năng, thế mạnh, lợi thế quốc gia, khắc phục những điểm yếu, hạn chế để sự phát triển diễn ra liên tục, hài hòa, tránh phát triển thiếu bền vững, đứt đoạn. Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới đến nay, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, song cũng có một số vấn đề đặt ra. Tăng trưởng kinh tế ở một số lĩnh vực chưa bền vững; còn có khoảng cách phát triển giữa nông thôn và thành thị, miền núi và miền xuôi; chưa giải quyết được hài hòa mục tiêu phát triển kinh tế với phát triển xã hội…
Sức mạnh tổng hợp quốc gia lớn mạnh. “Dân giàu, nước mạnh” là chỉ sức mạnh tổng hợp quốc gia không ngừng lớn mạnh. Sự cạnh tranh giữa các nước trên thế giới là lấy thực lực kinh tế làm cơ sở cạnh tranh sức mạnh tổng hợp. Giàu mạnh về kinh tế là cơ sở sức mạnh tổng hợp quốc gia; đồng thời, giàu mạnh cũng yêu cầu sức mạnh chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục; nghĩa là bao gồm cả “sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm”, mới có thể khiến cho đất nước hướng tới giàu mạnh toàn diện. Chúng ta cần đề ra chiến lược phát triển ưu tiên cho sức sáng tạo của khoa học - kỹ thuật, thúc đẩy kinh tế tiếp tục phát triển, gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa; đổi mới thể chế văn hóa, phát triển công nghiệp văn hóa; tăng cường xây dựng tư tưởng, đạo đức; đề cao các giá trị đạo đức tốt đẹp; làm phong phú và phát triển chính sách ngoại giao độc lập, tự chủ, nâng cao sức ảnh hưởng quốc tế và vị thế đất nước; bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, đẩy mạnh quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài.
Giải pháp thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”
Chủ nghĩa xã hội, một mặt, giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, phát triển đất nước; mặt khác, thực hiện sự giàu có chung cho quảng đại quần chúng nhân dân. Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội do nhân dân làm chủ, mọi quyền lực thuộc về nhân dân, cán bộ là công bộc của nhân dân. Chế độ xã hội chủ nghĩa hướng đến quảng đại quần chúng nhân dân cùng giàu có, ngày càng giảm bớt phân hóa giàu nghèo. Phát triển tương lai của xã hội xã hội chủ nghĩa là đi tới xã hội cộng sản chủ nghĩa, là một xã hội có lực lượng sản xuất phát triển, của cải vật chất và đời sống tinh thần phong phú, quản lý xã hội dân chủ cao độ, con người được phát triển toàn diện.
Để thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”, chúng ta cần:
Thứ nhất, kiên trì lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm, nỗ lực phát triển lực lượng sản xuất. Của cải vật chất xã hội phong phú là cơ sở quan trọng thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”. Chỉ có nỗ lực phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều thì chúng ta mới có khả năng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của toàn thể thành viên xã hội; không ngừng tăng đầu tư tài chính nhằm xây dựng kết cấu hạ tầng công cộng, kiện toàn hệ thống an sinh xã hội; phát triển các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tạo nền tảng vật chất cho củng cố và hoàn thiện chế độ xã hội chủ nghĩa, tiến tới xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Thứ hai, bảo đảm quyền và lợi ích chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của nhân dân. Theo đó, cần đẩy mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện hiện đại, nếu không có dân chủ và pháp chế thì không thể thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”. Quyền chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của nhân dân phải được bảo đảm thực hiện trên cơ sở các quy định pháp luật; quyền lực của Nhà nước phải phục vụ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, nếu không thì lợi ích nhân dân, dân chủ chỉ mang tính hình thức. Một chế độ như vậy chỉ có thể là chế độ chính trị dân chủ xã hội chủ nghĩa. Chúng ta cần không ngừng hoàn thiện chế độ dân chủ, làm phong phú các hình thức thực hành dân chủ; bảo đảm nhân dân được hưởng quyền dân chủ rộng rãi, thực chất. Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thứ ba, hoàn thiện chế độ phân phối thu nhập, bảo đảm và cải thiện an sinh xã hội. Trong các quan hệ xã hội, phân phối lợi ích là một quan hệ quan trọng. Trong mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”, phân phối thu nhập là khâu then chốt. Phải tiến hành phân phối lợi ích công bằng, xác đáng giữa các thành viên xã hội. Bên cạnh việc phân phối theo lao động, cần các hình thức phân phối khác; tăng cường điều tiết phân phối, thu nhập, trên cơ sở phát triển kinh tế, nâng cao mức thu nhập của người thu nhập thấp, từng bước mở rộng tỷ lệ người thu nhập trung bình, hướng tới quần chúng nhân dân đều giàu có.
Như chúng ta đều biết, phân hóa giàu nghèo không chỉ là khoảng cách thu nhập kinh tế, mà còn là vấn đề hưởng thụ các dịch vụ công cơ bản. Vì vậy, phải kiện toàn thể chế tài chính công, tăng cường đầu tư tài chính vào lĩnh vực phục vụ công cộng, các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hóa, việc làm, an sinh xã hội, môi trường sinh thái, kết cấu hạ tầng, an ninh, an toàn xã hội.
Cùng với việc hoàn thiện chế độ phân phối thu nhập, tài chính công, cần chú ý bảo đảm và cải thiện dân sinh, tích cực hoàn thiện an sinh xã hội. Phải xác định lợi ích của nhân dân làm mục tiêu quan trọng nhất để hoạch đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phản ánh chính xác và chú ý lợi ích của từng khu vực, vùng, miền, ngành nghề, các tầng lớp nhân dân khác nhau. Đồng thời với thúc đẩy phát triển, cần đặt công bằng, bình đẳng xã hội vào vị trí then chốt; vận dụng tổng hợp nhiều biện pháp, từng bước xác lập hệ thống bảo đảm công bằng xã hội, lấy công bằng quyền lợi, công bằng cơ hội, công bằng phân phối là nội dung chủ yếu; làm cho toàn thể nhân dân cùng hưởng thành quả của sự phát triển, cùng hưởng giàu có, hạnh phúc.
Thứ tư, cải cách thể chế văn hóa, đẩy mạnh ngoại giao văn hóa. Cần thiết lập môi trường nuôi dưỡng, khuyến khích sáng tạo và hình thành các giá trị văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Muốn hiện thực hóa mục tiêu này, chúng ta cần phải tháo gỡ những rào cản ngăn trở sự kết nối, điều hòa, phối hợp giữa các chủ thể văn hóa (cá thể, tư nhân, doanh nghiệp, Nhà nước) tham gia vào hoạt động sáng tạo văn hóa; đồng thời, phải tạo cơ chế giám sát, định hướng, điều chỉnh các hoạt động sáng tạo văn hóa theo những giá trị tốt đẹp và giảm thiểu các tác nhân gây ra sự phát triển lệch lạc, tiêu cực trong đời sống văn hóa. Cụ thể: 1- Kiện toàn hệ thống pháp luật và các văn bản pháp quy về bản quyền; 2- Giảm thiểu các thủ tục hành chính; 3- Tăng cường các chính sách thúc đẩy nghiên cứu và triển khai kết hợp với hiện đại hóa ngành văn hóa; 4- Tiếp tục đầu tư xây dựng và nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế văn hóa; 5- Kiện toàn hệ thống thanh tra ngành văn hoá và hệ thống thanh tra nhân dân trong lĩnh vực văn hóa.
Để thế giới hiểu biết hơn về hình ảnh đất nước, con người và văn hóa của Việt Nam; đưa quan hệ của Việt Nam với các nước đi vào chiều sâu, ổn định và bền vững; phát huy vai trò của văn hóa trong việc thúc đẩy hợp tác về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, góp phần tăng cường sự phát triển của đất nước; đồng thời tiếp thu tinh hoa, kinh nghiệm phát triển văn hoá thế giới, chúng ta cần đẩy mạnh ngoại giao văn hóa, theo đó: 1- Hoàn thiện chính sách ngoại giao văn hóa; 2- Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành, địa phương để triển khai các hoạt động ngoại giao văn hóa; 3- Gắn kết ngoại giao văn hóa với ngoại giao chính trị và ngoại giao kinh tế; 4- Đẩy mạnh các hoạt động thông tin đối ngoại về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam; 5- Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công tác ngoại giao văn hóa đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Thứ năm, tăng cường tiềm lực khoa học - công nghệ, đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân; đào tạo nguồn nhân lực khoa học - công nghệ chất lượng cao, cải tiến công cụ lao động, giải phóng sức lao động của con người, nâng cao trình độ kiến thức, tay nghề, kỹ năng của người lao động. Khi đất nước tiến tới nền kinh tế tri thức, cần trí thức hóa công nhân để tránh tụt hậu trong quá trình hội nhập quốc tế. Phát triển mạnh mẽ công nghệ thông tin, nhằm tạo tiền đề để tham gia vào nền sản xuất hiện đại toàn cầu. Với mục tiêu phát triển bền vững, đối phó hiệu quả với thiên tai, lũ lụt, biến đổi khí hậu, dịch bệnh…, cần giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa con người và tự nhiên, phát triển văn hóa sinh thái, kinh tế tuần hoàn, tái cấu trúc kinh tế, cần tránh quan điểm khai thác thiên nhiên bất chấp hậu quả. Trong thời gian tới, quá trình sản xuất có sự phân công và hợp tác sâu rộng giữa các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta cần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động; nâng cao chất lượng đào tạo nghề, phát triển đội ngũ công nhân có trình độ cao, làm chủ khoa học - công nghệ; xây dựng và hoàn thiện chính sách, pháp luật bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động; hoàn thiện thể chế, thiết lập môi trường thể chế minh bạch; xây dựng cơ chế quản lý tạo điều kiện cho đổi mới sáng tạo; phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng; phát triển các doanh nghiệp khoa học - công nghệ để tạo đột phá phát triển đất nước nhanh và bền vững.
Thứ sáu, đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền về mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”, huy động sức mạnh toàn xã hội, dựa vào lực lượng của toàn xã hội cùng phấn đấu vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
------------------
(1), (2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 175, 175, 187
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 25
Xu hướng biến đổi của lễ hội truyền thống hiện nay  (30/05/2021)
Khai mạc “Năm Du lịch quốc gia - Ninh Bình 2021” với chủ đề “Hoa Lư - Cố đô ngàn năm”  (21/04/2021)
Xuân sớm trên những công trình dầu khí biển  (02/01/2021)
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến văn hóa, lối sống người dân Việt Nam  (09/12/2020)
Phát huy giá trị các di sản văn hóa trong phát triển du lịch Thủ đô  (27/11/2020)
Giá trị văn minh - một đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam  (19/11/2020)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên