Giảm nghèo đa chiều bền vững cho các tỉnh Tây Bắc
TCCSĐT - Bên cạnh mục tiêu giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, thực hiện tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, cải thiện đời sống nhân dân, Chương trình mục tiêu quốc gia Giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 còn nhấn mạnh tới việc tạo điều kiện cho người nghèo được tiếp cận một cách tốt nhất các dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, tiếp cận thông tin), đặc biệt là đối với người dân ở các địa bàn nghèo, trong đó có các tỉnh Tây Bắc.
Sự chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo
Xóa đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước ta, nhằm hướng tới mục tiêu chăm lo đời sống nhân dân, bảo đảm tiến bộ công bằng xã hội. Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, với nhiều chiến lược, chương trình, dự án, như Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo, Chương trình 135, Nghị quyết 30a của Chính phủ về hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo nhất trong cả nước, Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn trong công tác xóa đói, giảm nghèo.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, Việt Nam đang phải đối mặt với không ít thách thức mới đặt ra trước yêu cầu xóa đói, giảm nghèo bền vững. Phần lớn những người nghèo sống chủ yếu ở vùng nông thôn xa xôi, hoặc là những đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào vùng sâu, vùng xa, có những hạn chế nhất định về trình độ học vấn, điều kiện y tế và cơ hội tiếp cận thông tin. Ngoài ra, công cuộc giảm nghèo ở nước ta còn đối mặt với một số thách thức mới, như bất ổn vĩ mô ngày càng tăng khiến cho tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại; nguy cơ tái nghèo mới ở khu vực nông thôn, ven biển có chiều hướng gia tăng…
Thời gian qua, ở Việt Nam, cách đo lường và đánh giá nghèo chủ yếu thông qua thu nhập. Chính phủ quy định chuẩn nghèo đơn chiều, xác định dựa trên mức chi tiêu đáp ứng những nhu cầu tối thiểu và được quy thành tiền. Nếu người có thu nhập thấp dưới mức chuẩn nghèo thì được đánh giá thuộc diện hộ nghèo. Trên thực tế, nhiều hộ dân thoát nghèo nhưng mức thu nhập vẫn nằm cận chuẩn nghèo, do đó số lượng hộ cận nghèo vẫn rất lớn, tỷ lệ tái nghèo còn cao. Có thể thấy, việc sử dụng tiêu chí thu nhập để đo lường nghèo đói là không đầy đủ bởi nhiều nhu cầu tối thiểu không thể đáp ứng bằng tiền, nhiều trường hợp không nghèo về thu nhập, không có tên trong danh sách hộ nghèo nhưng lại khó tiếp cận được các dịch vụ cơ bản về y tế, giáo dục, thông tin, nhất là người nghèo ở vùng sâu, vùng xa… Vì vậy, nếu chỉ dùng thước đo duy nhất dựa trên thu nhập sẽ bỏ sót đối tượng nghèo, từ đó dẫn đến sự thiếu công bằng trong thực thi các chính sách xóa đói, giảm nghèo.
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã chuyển từ một quốc gia thu nhập thấp sang nước có thu nhập trung bình nên cách tiếp cận đánh giá nghèo đơn chiều theo thu nhập đã bộc lộ những hạn chế. Tại Hội nghị Thượng đỉnh Liên hợp quốc thông qua Chương trình nghị sự 2030 về Phát triển bền vững (tháng 9-2015), Việt Nam cam kết xóa bỏ tình trạng nghèo dưới mọi hình thức, không để bất cứ ai bị bỏ lại phía sau. Để thực hiện cam kết trước cộng đồng quốc tế, Chính phủ Việt Nam đã chủ động đổi mới phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều, áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020. Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo hiệu quả, bền vững, ngày 15-9-2015 Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 1614/QĐ-TTg phê duyệt Đề án tổng thể “Chuyển đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020”. Chuẩn nghèo giai đoạn 2016 - 2020 của Việt Nam được xây dựng theo hướng sử dụng kết hợp cả chuẩn nghèo về thu nhập và mức độ thiếu hụt tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Theo đó, tiêu chí đo lường nghèo được xây dựng dựa trên cơ sở các tiêu chí về thu nhập, bao gồm chuẩn mức sống tối thiểu về thu nhập, chuẩn nghèo về thu nhập, chuẩn mức sống trung bình về thu nhập; mức độ thiếu hụt trong tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (tiếp cận về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin).
Các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản gồm 10 chỉ số: Tiếp cận các dịch vụ y tế; bảo hiểm y tế; trình độ giáo dục của người lớn; tình trạng đi học của trẻ em; chất lượng nhà ở; diện tích nhà ở bình quân đầu người; nguồn nước sinh hoạt; nhà tiêu hợp vệ sinh; sử dụng dịch vụ viễn thông; tài sản phục vụ tiếp cận thông tin. Việc chuẩn thu nhập tăng thêm gần gấp đôi kết hợp với xem xét các mức độ thiếu hụt dịch vụ cơ bản, một số hộ nghèo theo chuẩn đơn chiều giai đoạn trước đã thoát nghèo nhờ hỗ trợ vay vốn, phát triển kinh tế có tăng thu nhập, nhưng nay theo chuẩn đa chiều lại tái nghèo do gặp khó khăn về 5 dịch vụ xã hội. Chuẩn nghèo trong 5 năm tới (giai đoạn 2015 - 2020) bao gồm người có thu nhập 700.000 đồng/người/tháng ở nông thôn và 900.000 đồng/người/tháng ở thành thị. Theo tiêu chí mới, một gia đình được coi là hộ nghèo nghiêm trọng nếu hộ đó thiếu từ 1/2 tổng số nhu cầu cơ bản trở lên; thiếu từ 1/3 - 1/2 tổng số nhu cầu sống cơ bản là hộ nghèo đa chiều; thiếu từ 1/5 - 1/3 tổng số nhu cầu cơ bản là hộ cận nghèo đa chiều. Nội dung của cách tiếp cận đo lường nghèo đa chiều cần phải xác định được các chiều thiếu hụt, các chỉ số đo lường mức độ thiếu hụt trong từng chiều, đồng thời bám sát bộ tiêu chí như đề xuất hiện nay.
Thực trạng công tác xóa đói, giảm nghèo ở các tỉnh Tây Bắc
Tây Bắc là địa bàn có vị trí chiến lược về kinh tế - xã hội, môi trường sinh thái cũng như an ninh - quốc phòng của nước ta. Xác định được vai trò, tầm quan trọng của phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo khu vực Tây Bắc với công cuộc đổi mới của cả nước, thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta thường xuyên chỉ đạo quyết liệt các bộ, ban, ngành cùng các địa phương trong vùng Tây Bắc chủ động phối hợp triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án quan trọng, cơ chế, chính sách, giải pháp để phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới xóa đói, giảm nghèo bền vững.
Tuy có xuất phát điểm thấp, khó khăn hơn nhiều vùng trong cả nước, nhưng nhờ tích cực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, các tỉnh khu vực Tây Bắc đã đạt được những kết quả nhất định. Kết cấu hạ tầng nông thôn có bước phát triển rõ rệt, nhất là về giao thông, điện, nước sạch, công tác xóa nhà tạm… Đến hết năm 2014, đã có 94% số xã đã hoàn thành quy hoạch chung về nông thôn mới (tỷ lệ bình quân cả nước là 96,4%). Nhiều xã đã hoàn thành quy hoạch chi tiết sản xuất, quy hoạch chi tiết hạ tầng kinh tế - xã hội, phê duyệt xong đề án chi tiết… Bình quân các xã trong khu vực đã đạt 7,5 tiêu chí (tăng 3,8 tiêu chí so với năm 2010). Các chương trình, dự án về giảm nghèo và an sinh xã hội nông thôn như Chương trình 135, Chương trình 30a... được hướng dẫn, triển khai các bước theo tiến độ trên địa bàn Tây Bắc. Nhiều địa phương trong vùng cũng đã chủ động đầu tư xây dựng mô hình phát triển sản xuất, giảm nghèo bền vững, tập trung vào các mô hình chăn nuôi gia súc, gia cầm, trồng cây ăn quả, cây lương thực chất lượng cao và cố gắng nhân rộng, như: mô hình trồng chè giống mới ở Phú Thọ; mô hình nuôi bò sinh sản ở huyện Quan Hóa (Thanh Hóa); mô hình chế biến chè ở Tuyên Quang; mô hình trồng mít Thái ở Lào Cai... Công tác bố trí dân cư khu vực vùng Tây Bắc những năm qua cũng góp phần quan trọng phát triển nông nghiệp, nông thôn, ổn định cho đối tượng là những người có hoàn cảnh khó khăn, thuộc diện nghèo ở các vùng dễ xảy ra rủi ro. Tính đến hết năm 2014, Tây Bắc thực hiện bố trí ổn định cho 3.318 hộ, trong đó ổn định tại chỗ đạt 8%; di dân tập trung đạt 21%; xen ghép đạt 30%. Nhiều hộ được di chuyển ra khỏi vùng thiên tai (sạt lở đất, lũ quét, lũ ống, ngập lũ), vùng đặc biệt khó khăn. Công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn Tây Bắc được chú trọng để thực hiện mực tiêu xóa đói, giảm nghèo. Năm 2014, tổng số lao động nông thôn được đào tạo nghề nông nghiệp của vùng là 37.000 người, nhiều lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập. Nhiều mô hình dạy nghề nông nghiệp và phi nông nghiệp được triển khai rộng rãi và được nhân rộng hiệu quả ở một số địa phương, không chỉ tạo được sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của các cấp, các ngành và người lao động nông thôn về vai trò quan trọng của dạy nghề cho lao động nông thôn đối với việc phát triển nguồn nhân lực và xóa đói, giảm nghèo.
Tính đến hết năm 2015, tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc đạt hơn 128 nghìn tỷ đồng (tăng hơn 16% so với năm 2014), trong đó, tổng nguồn vốn huy động tại 6 tỉnh có hộ nghèo cao (Cao Bằng, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Hà Giang) đạt hơn 47 nghìn tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 36,7%/tổng nguồn vốn khu vực Tây Bắc, tăng hơn 14% so với năm 2014. Đóng vai trò là ngân hàng chủ lực trong cho vay xóa đói, giảm nghèo, trong 5 năm qua, Ngân hàng Chính sách xã hội đã cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác tại vùng Tây Bắc với doanh số cho vay đạt 50.658 tỷ đồng, doanh số thu nợ đạt 31.905 tỷ đồng. Đối với 6 tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao trên 20% (Cao Bằng, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Hà Giang), dư nợ tại 6 tỉnh này đến hết tháng 11-2015 đạt trên 11 nghìn tỷ đồng, chiếm gần 40% tổng dư nợ tín dụng chính sách trong cả vùng, với 480.000 hộ nghèo và các đối tượng chính sách đang còn dư nợ, dư nợ bình quân hộ nghèo đạt 30 triệu đồng/hộ vay.
Với sự nỗ lực của toàn hệ thống chính trị, công tác xóa đói, giảm nghèo luôn được các tỉnh Tây Bắc xác định là nội dung quan trọng trong các kế hoạch kinh tế - xã hội. Đây cũng là khu vực đạt được thành tích giảm nghèo nhanh nhất cả nước. Tỷ lệ hộ nghèo toàn vùng Tây Bắc đã giảm từ 34,41% vào thời điểm cuối năm 2009 xuống còn 18,26% vào cuối năm 2014, còn khoảng 15% vào cuối năm 2015, bình quân giảm 3,91%/năm, cao gần gấp đôi so với mức giảm tỷ lệ hộ nghèo chung toàn quốc trong cùng giai đoạn. Tuy nhiên, do còn nhiều khó khăn về điều kiện tự nhiên, đất sản xuất, kết cấu hạ tầng còn thấp, trình độ dân trí chưa cao nên tỷ lệ hộ nghèo vùng Tây Bắc vẫn cao gấp 2,7 lần bình quân cả nước và khoảng cách này có nguy cơ ngày càng rộng ra.
Theo thống kê, các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ chưa hoàn thành tại Việt Nam hiện nằm ở một số địa bàn và nhóm dân cư, nhất là vùng dân tộc thiểu số ở miền núi Tây Bắc. Kết quả đạt được của một số Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đối với các dân tộc thiểu số đang còn cách xa so với mặt bằng chung của cả nước. Tỷ lệ nghèo về thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số hiện cao hơn 3,5 lần mức trung bình cả nước. Nhiều chỉ số về đói, nghèo; phổ cập giáo dục tiểu học; tăng cường bình đẳng giới và nâng cao vị thế, năng lực cho phụ nữ; giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em; nâng cao sức khỏe bà mẹ; vệ sinh môi trường... có khoảng cách chênh lệch khá lớn giữa các nhóm dân tộc thiểu số với dân tộc Kinh hay giữa các vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống với các vùng đồng bằng, đô thị. Việc chậm theo kịp tiến độ thực hiện các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ ở đồng bào dân tộc thiểu số cho thấy nhiều khó khăn và thách thức mà nước ta cần vượt qua để giảm nghèo ở mọi hình thái, mọi chiều ngoài chiều thu nhập, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
Một số giải pháp cơ bản
Để thực hiện giảm nghèo bền vững, Chính phủ đề ra mục tiêu giảm tỷ lệ hộ nghèo cả nước bình quân 1% - 1,5%/năm (riêng các huyện, xã nghèo giảm 4%/năm) theo chuẩn nghèo quốc gia giai đoạn 2016 - 2020; cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống của người nghèo, bảo đảm thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo cả nước tăng lên 2 lần so với cuối năm 2015 (riêng các hộ nghèo ở các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi tăng gấp 1,5 lần); thực hiện đồng bộ, có hiệu quả cơ chế, chính sách giảm nghèo để cải thiện điều kiện sống của người nghèo và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như chính sách phát triển sản xuất, đất sản xuất; chính sách tín dụng ưu đãi; chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm y tế; giáo dục và đào tạo; nhà ở; nước sạch và vệ sinh, tiếp cận thông tin; giảm nghèo gắn với an ninh quốc phòng…; giải quyết một cách cơ bản về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện, nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn theo tiêu chí nông thôn mới, trước hết là hạ tầng thiết yếu như giao thông, điện, nước sinh hoạt. Các chỉ tiêu chủ yếu cần đạt được đến năm 2020 được đưa ra là: Phấn đấu 10% số huyện nghèo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn theo Nghị quyết 30a/2008/NQ-CP; 30% số xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn theo tiêu chí; 30% số xã, thôn bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn theo tiêu chí.
Do vậy, để khai thác tốt và có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của vùng, bảo đảm thực hiện thắng lợi các mục tiêu giảm nghèo đa chiều bền vững cho các tỉnh Tây Bắc, thời gian tới cần tập trung thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng đến các cấp ủy, chính quyền, nhân dân, các tổ chức xã hội, nhằm tạo sự chuyển biến và nâng cao nhận thức trong toàn xã hội, tạo sự đồng thuận và quyết tâm cao trong các cấp, ngành cùng nhân dân trong vùng về giảm nghèo đa chiều bền vững; khơi dậy ý chí chủ động, vươn lên của người nghèo, tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả chính sách và nguồn lực hỗ trợ của nhà nước, của cộng đồng để thoát nghèo, vươn lên làm giàu cho gia đình và xã hội. Tăng cường tuyên truyền và nhân rộng các mô hình, tấm gương thoát nghèo, tạo động lực cả về vật chất và tinh thần để các hộ nghèo khác phấn đấu noi theo.
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân. Hỗ trợ kỹ thuật cho các địa phương nhanh chóng thể chế hóa các Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đối với đồng bào dân tộc thiểu số vào các chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2016 - 2020 của từng tỉnh trên địa bàn Tây Bắc... Khai thác tiềm năng, lợi thế của vùng như du lịch, lâm nghiệp, nông nghiệp (trong đó có chăn nuôi đại gia súc), kinh tế biên mậu với các giải pháp đồng bộ, bền vững để phát huy lợi thế so sánh của vùng; tạo điều kiện cho doanh nghiệp đầu tư. Tích cực ứng dụng khoa học - công nghệ trong nông nghiệp cho các sản phẩm có tiềm năng, thế mạnh. Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất phù hợp, hiệu quả. Tập trung nguồn lực hơn cho vùng nghèo, vùng khó khăn, vùng lõi nghèo của Tây Bắc.
Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, nhất là đào tạo nghề - giải pháp quan trọng góp phần xóa đói, giảm nghèo bền vững. Đầu tư tập trung và đồng bộ cơ sở vật chất, thiết bị dạy nghề, chương trình đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý dạy nghề…; mở rộng các hình thức đào tạo nghề gắn với chuyển giao công nghệ mới, chuyển giao các kỹ thuật và quy trình sản xuất mới cho các hộ nông dân; nhân rộng các mô hình tốt trong đào tạo nghề cho lao động nông thôn, đào tạo nghề cho các làng nghề, các vùng sản xuất chuyên canh, tạo cơ hội việc làm cho lao động nông thôn, gắn hoạt động kinh tế của các làng nghề với hoạt động dịch vụ, du lịch và bảo tồn, phát triển văn hóa truyền thống. Nâng cao hiệu quả công tác thông tin cơ sở nhằm tạo cơ hội tiếp cận thông tin cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa. Cải thiện và nâng cấp dịch vụ y tế, nâng cao hiệu quả công tác y tế cộng đồng; tăng cường bảo vệ rừng, cải thiện môi trường sinh thái
Thứ ba, thực hiện đa dạng hóa nguồn vốn huy động để triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020, bảo đảm huy động đầy đủ, kịp thời theo đúng cơ cấu đã được quy định; tăng cường huy động vốn từ ngân sách địa phương và các nguồn huy động đóng góp của doanh nghiệp và vận động tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Sử dụng hiệu quả các nguồn vốn, tập trung cho những dự án quan trọng, theo thứ tự ưu tiên, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, thực hiện tốt hình thức hợp tác công - tư, nhất là lĩnh vực trồng cây công nghiệp, chăn nuôi, nuôi thủy sản.
Thứ tư, tiến hành rà soát và thay đổi một số chính sách cho phù hợp, quan tâm nhiều đến sản xuất, bên cạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng; chuyển đổi phương thức hỗ trợ từ cho không chuyển sang hỗ trợ cho vay, cho mượn; xây dựng đồng bộ chương trình, mục tiêu quốc gia về giảm nghèo (trong đó chú trọng 6 tỉnh nghèo nhất Tây Bắc). Lồng ghép việc thực hiện các chính sách hỗ trợ giảm nghèo nói chung và các chính sách giảm nghèo đặc thù với các dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững ở các huyện nghèo, xã, thôn bản đặc biệt khó khăn. Áp dụng cơ chế đặc thù rút gọn đối với một số dự án đầu tư có quy mô nhỏ, kỹ thuật không phức tạp, Nhà nước chỉ hỗ trợ đầu tư một phần kinh phí, phần còn lại do nhân dân đóng góp, có sự tham gia giám sát của nhân dân. Dự toán phân bổ kinh phí cho các dự án, cho các huyện nghèo, các xã, thôn bản đặc biệt khó khăn là cơ sở để cấp Trung ương hỗ trợ có mục tiêu cho các địa phương; còn việc phân bổ kinh phí cụ thể cho các huyện nghèo, xã, thôn bản đặc biệt khó khăn do các địa phương tự quyết định, dựa trên nhu cầu phát triển và kế hoạch cụ thể của các huyện nghèo, xã, thôn bản đặc biệt khó khăn trên địa bàn Tây Bắc. Cấp ủy và chính quyền ở địa phương Tây Bắc cần giải quyết kịp thời đất ở, đất sản xuất, đất rừng cho người dân, đồng thời địa phương, xây dựng nghị quyết chuyên đề về vấn đề này với chương trình hành động cụ thể, có sự giám sát, đánh giá của hội đồng nhân dân.
Thực hiện cơ chế hỗ trợ tạo sinh kế cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo thông qua dự án (kế hoạch) đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt dựa trên quy hoạch sản xuất của địa phương; hỗ trợ cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo tự nguyện đăng ký tham gia dự án thông qua nhóm hộ, cộng đồng; nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, vốn vay ngân hàng chính sách xã hội, nguồn vốn lồng ghép thực hiện các chính sách, nguồn vốn đối ứng của hộ gia đình; thu hồi, luân chuyển một phần chi phí hỗ trợ hoặc vật nuôi (từ nguồn vốn ngân sách nhà nước) phù hợp với từng dự án và điều kiện cụ thể của từng đối tượng được hỗ trợ, nhằm nhân rộng dự án cho nhiều hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo khác được tham gia.
Thứ năm, các bộ, ngành Trung ương xây dựng ban hành cơ chế, chính sách; hướng dẫn xây dựng chương trình khung và kế hoạch hằng năm cấp tỉnh; tổng hợp kế hoạch cấp quốc gia và phân bổ nguồn lực công khai, tạo chủ động cho các địa phương Tây Bắc theo nguyên tắc, tiêu chí và định mức đã ban hành; giao mục tiêu, nhiệm vụ và kinh phí hỗ trợ (bao gồm cả vốn đầu tư phát triển và vốn sự nghiệp) cho các địa phương; tổ chức giám sát, đánh giá quá trình thực hiện chương trình; công bố tỷ lệ hộ nghèo cấp quốc gia. Các cấp địa phương: thực hiện phương thức trao quyền, xác lập cơ chế hỗ trợ đầu tư về tài chính theo kế hoạch 5 năm và hằng năm; trên cơ sở tổng nguồn lực được giao, địa phương sẽ chủ động bố trí ngân sách, chỉ đạo xây dựng Đề án giảm nghèo cụ thể để giải quyết những nhu cầu bức xúc trên địa bàn theo các mục tiêu, nhiệm vụ của Chương trình đề ra. Nghiên cứu chính sách để giảm bớt thiệt thòi cho đồng bào những địa phương có tỷ lệ che phủ rừng cao, đang làm nhiệm vụ bảo vệ rừng, ngoài Chương trình 30a. Tiêu chí nông thôn mới cần nghiên cứu, sửa đổi phù hợp với đặc điểm tình hình vùng cao.
Cần đánh giá chính xác và phân loại các hộ nghèo thành các nhóm khác nhau, theo các tiêu chí phân loại nghèo đa chiều. Đảng ủy, chính quyền các cấp cần tập trung chỉ đạo các ban ngành, đoàn thể, các chi bộ xây dựng kế hoạch cụ thể, phân công cán bộ, đảng viên phụ trách từng hộ nghèo ở địa phương để tư vấn, giúp đỡ về mọi mặt, đến từng hộ để khảo sát, tìm hiểu kỹ về gia cảnh, động viên, thuyết phục người dân nỗ lực phấn đấu vươn lên thoát nghèo.
Thứ sáu, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát, đánh giá một cách công khai, dân chủ trong các hoạt động giảm nghèo; không chạy theo thành tích, bảo đảm hiệu quả tiết kiệm, tránh lãng phí, tiêu cực, nhất là trong quản lý, sử dụng các nguồn vốn đầu tư cho chương trình. Đẩy mạnh phân cấp trao quyền cho cơ sở, cộng đồng, mở rộng và tạo điều kiện để tăng cường sự tham gia của người dân trong các hoạt động của Chương trình từ việc xác định đối tượng thụ hưởng đến việc lập kế hoạch; triển khai, giám sát và đánh giá kết quả thực hiện. Bảo đảm tính công khai, minh bạch và tính trách nhiệm trong suốt quá trình thực hiện. Chú trọng bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ, năng lực quản lý, điều hành của cán bộ làm công tác giảm nghèo ở các cấp, các ngành bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Bảo đảm an ninh trật tự, ổn định tình hình, củng cố nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở, đặc biệt là phát huy vai trò già làng, trưởng bản, người có uy tín trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Thứ bảy, tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế (đa phương, song phương) để chia sẻ thông tin và kinh nghiệm, đồng thời tranh thủ sự trợ giúp về kỹ thuật và nguồn lực để thực hiện thành công mục tiêu giảm nghèo đa chiều bền vững./.
Việt Nam - Trung Quốc: Nỗ lực thúc đẩy hợp tác thực chất đạt tiến triển mới, đem lại lợi ích thiết thực  (13/09/2016)
Hòa giải - một cốt cách văn hóa Hồ Chí Minh  (13/09/2016)
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến dự thảo Nghị quyết về ngân sách nhà nước  (13/09/2016)
Thành phố Hồ Chí Minh và tỉnh Aichi ký Bản ghi nhớ về quan hệ hữu nghị và hợp tác  (13/09/2016)
Vùng Wallonie-Bruxelles tăng cường tìm hiểu cơ hội đầu tư ở Việt Nam  (13/09/2016)
Việt Nam - Nga tăng cường hợp tác về tổ chức và xây dựng Đảng  (13/09/2016)
- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp: Nền tảng góp phần phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Pháp
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm