Phát triển hợp tác xã dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và yêu cầu của thời kỳ mới
Theo sự chỉ đạo của Thường trực Ban Bí thư Trung ương, với mục đích chuẩn bị cho việc tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa IX "Về tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể", Liên minh Hợp tác xã Việt Nam đã phối hợp với Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Tạp chí Cộng sản, Báo Nhân Dân để xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch Hội thảo khoa học quốc gia: "Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã: những vấn đề lý luận và thực tiễn". Ban tổ chức Hội thảo đã nhận được trên 60 bài tham luận của các đồng chí lãnh đạo, các nhà khoa học, các cán bộ quản lý, từ nhiều cơ quan, địa phương trong cả nước. Một số đồng chí là chủ nhiệm lâu năm, có nhiều kinh nghiệm của một số hợp tác xã hoạt động có hiệu quả tốt ở các vùng trong cả nước cũng có báo cáo tại Hội thảo. Các bản tham luận đã có những nội dung rất phong phú, đề cập nhiều vấn đề lý luận về hợp tác xã trong di sản của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng như tình hình lý luận và thực tiễn phát triển của hợp tác xã của nước ta trong giai đoạn hiện nay. Điều đó càng chứng tỏ chủ đề Hội thảo có sức hấp dẫn và ý nghĩa thực tiễn trong tình hình hiện nay.
Thay mặt Ban tổ chức Hội thảo, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đối với sự chỉ đạo kịp thời của Thường trực Ban Bí thư, chân thành cảm ơn các cơ quan, các nhà khoa học, các cán bộ quản lý và các đồng chí đã hợp tác, ủng hộ, giúp đỡ để tạo nên sự thành công của cuộc Hội thảo.
Tại Hội thảo này, chúng ta đã khẳng định và làm rõ thêm những giá trị lý luận và thực tiễn về hợp tác xã trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong việc phát triển hợp tác xã ở Việt Nam, cũng như đặt ra và góp ý nhiều vấn đề, lĩnh vực và các mối quan hệ... cần phải tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, hoàn thiện về lý luận, chính sách nhằm góp phần nâng cao hiệu quả của các hợp tác xã trong tình hình mới.
Các ý kiến tham gia đóng góp cho Hội thảo, về cơ bản, đã tập trung và nhất trí ở một số nội dung chính như sau:
1 - Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã là sự kế thừa những tinh hoa của nhân loại, đồng thời kết hợp một cách khéo léo, tài tình với quan điểm mác-xít và được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.
Về bản chất: Hợp tác xã là tổ chức tự nguyện của người dân, hợp nhau lại để tăng thêm sức mạnh. Là "Nhóm lại thành giàu, chia nhau thành khó" hay "Một cây làm chẳng nên non, nhiều cây chụm lại nên hòn núi cao"...
Quan hệ trong hợp tác xã là dân chủ và cùng có trách nhiệm. Đã vào hợp tác xã, trở thành xã viên thì bất kỳ góp nhiều hay góp ít, vào trước hay vào sau, ai cũng bình đẳng như nhau về trách nhiệm. Đây là sự khác nhau căn bản giữa hợp tác xã với công ty cổ phần, trong đó lá phiếu tỷ lệ thuận với vốn góp.
Hợp tác xã trước hết là của những người nghèo, người khó khăn, yếu thế trong xã hội... hợp nhau lại để cùng tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, quan hệ hợp tác hay còn gọi là chế độ hợp tác xã có thể được áp dụng cho những quan hệ rộng lớn hơn trong xã hội.
Mục đích của hợp tác xã là tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau, mưu lợi chung, chung nhau góp sức cùng có lợi, là hợp tác với nhau để cùng mạnh lên, vươn lên, chống lại sự áp bức, chống lại tình trạng không bình đẳng về kinh tế, xã hội. Cho nên, hợp tác xã khác với hội buôn, công ty cổ phần, mưu lợi riêng, lấy mục tiêu chính là lợi nhuận. Hợp tác xã đồng thời cũng khác hội từ thiện, trong đó chỉ có tiêu đi mà không có làm ra. Hợp tác xã có tiêu đi, có làm ra, chỉ giúp người trong hội, nhưng giúp một cách bình đẳng, mang tính cách mạng sâu sắc, ai cũng được giúp mà ai cũng phải giúp.
Vai trò của hợp tác xã là: Con đường đi lên của người dân để vượt qua khó khăn, nghèo đói, xây dựng cộng đồng văn minh, tương thân, tương ái, chống lại mọi sự bất công, áp bức về kinh tế - xã hội.
Hợp tác xã cũng là một tổ chức dân chủ và cách mạng, nơi tập hợp, giáo dục, nâng cao trình độ cho người dân, hướng người dân vào những mục đích xã hội tích cực, tiến bộ và cách mạng.
Về nguyên tắc tổ chức: Hợp tác xã phải thật sự dân chủ, tự nguyện.
Việc phát triển hợp tác xã phải phù hợp với thực tiễn cuộc sống, không rập khuôn cứng nhắc, phát triển một cách tuần tự, không nóng vội, tiến hành từ hình thức thấp đến cao.
Hợp tác xã là tổ chức thiết thực, bình đẳng và cùng có lợi của những người dân, nhưng để bảo đảm cho sự phát triển hợp tác xã phải có sự lãnh đạo.
Các hợp tác xã cũng phải liên kết với nhau và liên kết với các tổ chức, loại hình kinh tế - xã hội khác để tạo điều kiện cho sự phát triển.
Nói đến bản chất kinh tế - xã hội của hợp tác xã, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã coi chế độ hợp tác xã có nhiều mục tiêu đồng nhất với mục đích của chủ nghĩa xã hội, vì ở một nước tiểu nông, khi toàn bộ nông dân tham gia hợp tác xã cũng có nghĩa là đi theo con đường đúng đắn để đến ấm no, hạnh phúc. Và mục đích thực chất của chủ nghĩa xã hội cũng là làm cho toàn bộ xã hội được ấm no, hạnh phúc. Chế độ hợp tác xã văn minh là thể hiện một mặt, một mức độ nào đó của các đặc trưng, bản chất của chủ nghĩa xã hội. Trong vấn đề này V.I. Lê-nin cũng đã khẳng định như vậy, "hợp tác xã chính là một chủ nghĩa xã hội thu nhỏ".
Những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hợp tác xã vẫn còn nguyên giá trị trong điều kiện hiện nay ở Việt Nam, khi Đảng và Nhà nước chủ trương tiến hành đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, trong đó có phát triển kinh tế tập thể, hợp tác, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
2 - Những tư tưởng quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh về hợp tác xã đã được hiện thực hóa ở Việt Nam vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX. Đến nay, có điều kiện nhìn lại toàn bộ quá trình đó, chúng ta càng thấy rõ cái vĩ đại trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thì lại càng thấy cần rút ra nhưng vấn đề rất căn bản về thực hiện những tư tưởng đó, nhất là khắc phục bệnh duy ý chí, chủ quan, nóng vội. Điều đó thể hiện rõ trong quá trình phát triển hợp tác xã ở nước ta thời kỳ trước Đổi mới (năm 1986). Sự phát triển hợp tác xã thời kỳ này có thể chia làm những giai đoạn như sau:
- Từ năm 1954 - 1957: Đánh giá chủ trương, chính sách thời gian này, các ý kiến đều thấy đây là những năm chúng ta có chủ trương, đường lối và chính sách về tổ chức các tổ đổi công, hợp tác xã phù hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác hóa nông nghiệp. Tinh thần này được thể hiện trong Chỉ thị số 31- CT/TW ngày 30-6-1955 của Trung ương Đảng và các chỉ thị khác của Bộ Chính trị nhằm hướng dẫn, chỉ đạo các nguyên tắc và phương pháp xây dựng và phát triển hợp tác xã. Vì vậy, chúng ta đã thu được nhiều thắng lợi, phong trào tổ đổi công, phát triển hợp tác xã trong những năm khôi phục kinh tế phát triển lành mạnh, góp phần quan trọng vào thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống nông dân, cung cấp nhiều nông sản cho xã hội.
- Từ năm 1958 - 1980: Đây là thời kỳ mở rộng hợp tác hóa nông nghiệp ở tất cả các địa phương miền Bắc, thu hút 89% các hộ nông dân vào các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp. hợp tác xã nông nghiệp thời kỳ này đã đạt được một số thành tựu quan trọng, thúc đẩy phong trào thâm canh tăng năng suất, cải thiện đời sống của nông dân, tổ chức, động viên nhân dân thực hiện các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, các hợp tác xã có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm và cung ứng sức người, sức của cho công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước với khẩu hiệu "thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người".
Tuy nhiên, do nóng vội, chủ quan, lấy mục tiêu cải tạo xã hội chủ nghĩa là then chốt, chạy theo số lượng, mở rộng quy mô hợp tác xã quá nhanh, không tính toán đầy đủ đến trình độ phát triển lực lượng sản xuất ở nông thôn cũng như năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ nên hợp tác xã không phát huy được hiệu quả kinh tế, xã hội. Các đợt cải tiến quản lý hợp tác xã nông nghiệp thời kỳ này không đạt kết quả như mong muốn. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, điều kiện phát triển kinh tế đã thay đổi, nhưng mô hình hợp tác xã nông nghiệp vẫn không đổi mới, làm cho khu vực sản xuất nông nghiệp lâm vào khủng hoảng.
- Từ năm 1980 - 1985: chúng ta đã phát hiện nhiều sai sót và từng bước điều chỉnh đường lối, chính sách kinh tế nói chung trong đó có đường lối, chính sách phát triển hợp tác xã nông nghiệp như: quy mô hợp tác xã cần giữ ổn định trong một số năm, không nên quá lớn, không cưỡng ép, mệnh lệnh, lấy kết quả sản xuất làm căn cứ... Chỉ thị 100 của Ban Bí thư chủ trương mở rộng việc thực hiện và hoàn thiện các hình thức khoán sản phẩm trong nông nghiệp đã mở ra những hình thức hợp tác gắn bó chặt chẽ hơn trách nhiệm và quyền lợi thực tế của người nông dân, giải phóng sức sản xuất, tạo ra động lực mới cho sự phát triển của nông nghiệp nước ta.
3 - Từ năm 1986 đến nay, cùng với quá trình đổi mới và đi lên của đất nước, những chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước đối với hợp tác xã đã có nhiều thay đổi, đã từng bước được hoàn thiện qua các kỳ đại hội và cụ thể hóa từ các kỳ họp Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng. Nhìn chung các chủ trương, đường lối về hợp tác xã của Đảng và Nhà nước đều thể hiện sự nhất quán, khẳng định sự tồn tại lâu dài của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, bao gồm kinh tế tập thể và hợp tác xã trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đại hội lần thứ X của Đảng (năm 2006) đã khẳng định kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể mà nòng cốt là hợp tác xã ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Hợp tác xã ở nước ta đã được xác định vừa là tổ chức kinh tế, vừa là tổ chức xã hội, là nhân tố quan trọng để xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; là hình thức tổ chức quan trọng để người lao động, hộ xã viên tiếp nhận sự hỗ trợ của Nhà nước, liên kết với doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, thực hiện liên minh công nông. Các chủ trương, đường lối của Đảng, hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước về hợp tác xã thời kỳ này đã tạo khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của hợp tác xã, bao gồm Hiến pháp năm 1992, Luật Hợp tác xã năm 1997, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Hợp tác xã năm 2003 và nhiều chính sách cụ thể khác, nhằm tạo điều kiện thuận lợi hỗ trợ hợp tác xã phát triển, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh để có thể tham gia bình đẳng trong nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần kinh tế.
Đánh giá thực tiễn phát triển của hợp tác xã trong giai đoạn này, có thể thấy rằng:
- Chúng ta cơ bản đã chuyển đổi xong các hợp tác xã cũ, giải thể các hợp tác xã hình thức, không còn hoạt động, thành lập mới được nhiều hợp tác xã. Đến cuối năm 2006 cả nước có 8.432 hợp tác xã nông nghiệp, trong đó có 6.391 hợp tác xã cũ đã chuyển đổi và 2.032 hợp tác xã thành lập mới. Tỷ lệ số hộ dân tham gia hợp tác xã nông nghiệp hiện nay khoảng 58%. Các hợp tác xã (bao gồm cả chuyển đổi và thành lập mới) nhìn chung đều tuân thủ những nguyên tắc, quy định của Luật Hợp tác xã.
- Các hợp tác xã chuyển đổi đã bước đầu khắc phục được tình trạng thua lỗ kéo dài và tính hình thức, không rõ ràng về xã viên và tài sản.
- Các hợp tác xã đã thu hút được trên 12,5 triệu người lao động, hộ kinh tế gia đình, kinh tế cá thể, tiểu chủ, các cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ, góp phần tích cực vào chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và phát triển sản xuất ở nhiều địa phương trong cả nước.
- Nhiều hợp tác xã đã tham gia cung ứng các dịch vụ thiết yếu cho xã viên (thủy lợi, khuyến nông, cung ứng vật tư, điện, tiêu thụ sản phẩm,...) để phục vụ sản xuất nông nghiệp.
- Quá trình phát triển hợp tác xã mới được đẩy mạnh theo hướng tích cực và đa dạng hơn. Đã xuất hiện được nhiều mô hình hợp tác xã chuyên ngành, liên hiệp hợp tác xã, nhiều hình thức liên kết hợp tác xã với các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác với nội dung liên kết đa dạng, phong phú.
- Nhiều hợp tác xã còn thực hiện tốt chức năng xã hội thông qua tham gia hoạt động phát triển nông thôn, như: xóa đói, giảm nghèo, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, hỗ trợ các hộ nghèo phát triển sản xuất...
Tuy có những chuyển biến tích cực, nhưng Hội thảo đánh giá một cách thẳng thắn rằng, những chuyển biến đó vẫn chưa đủ mức để tạo nên những bước ngoặt về chất trong phát triển của hợp tác xã, nhất là để hợp tác xã vươn lên xứng đáng với vị trí, vai trò của một thành phần kinh tế như trong các nghị quyết của Đảng đã đặt ra đối với kinh tế tập thể. Tình hình chung của một bộ phận không nhỏ các hợp tác xã vẫn chưa thoát khỏi tình trạng yếu kém, còn nhiều tồn tại, khó khăn như:
- Tính hình thức trong chuyển đổi hợp tác xã theo Luật Hợp tác xã vẫn chưa được khắc phục. Như, đa số xã viên các hợp tác xã chuyển đổi khi tham gia hợp tác xã không có đơn và vốn góp mới, như vậy không đáp ứng được yêu cầu cơ bản là muốn gia nhập hợp tác xã xã viên phải góp vốn.
- Nhiều hợp tác xã quy mô còn nhỏ, thiếu vốn, tài sản ít, chậm đổi mới, khả năng cạnh tranh thấp. Đa số hợp tác xã vẫn tập trung vào các dịch vụ truyền thống như thủy lợi, khuyến nông.... Cả nước còn 38% số hợp tác xã chưa có trụ sở riêng, nhiều tài sản của hợp tác xã chưa gắn với quyền sử dụng đất, nhiều cơ sở dịch vụ chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất làm cho hợp tác xã thiếu tính độc lập, tự chủ trong kinh doanh.
- Đội ngũ cán bộ quản lý hợp tác xã còn hạn chế về trình độ, năng lực. Nhiều cán bộ quản lý chưa qua tập huấn nghiệp vụ, làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, còn thiếu yên tâm làm việc ổn định lâu dài trong hợp tác xã, chủ yếu do chế độ thù lao cho cán bộ hợp tác xã còn thấp.
- Nhiều hợp tác xã, cả hợp tác xã đã chuyển đổi và hợp tác xã thành lập mới, chưa bảo đảm tuân thủ những nguyên tắc, giá trị hợp tác xã, các quy định về góp vốn, điều lệ, về tích lũy tài sản vốn quỹ chung, vốn không chia...
- Hoạt động của các hợp tác xã còn thiếu gắn bó với nhau, chưa có sự liên kết hệ thống chặt chẽ cả về mặt kinh tế, xã hội và về tổ chức. Tuy đã hình thành được một số liên hiệp hợp tác xã, nhưng quy mô nhỏ, hiệu quả chưa cao, hỗ trợ hợp tác xã thành viên còn ít.
- Công nợ trong hợp tác xã, nhất là trong các hợp tác xã chưa chuyển đổi, mới chuyển đổi, chưa được xử lý rõ ràng, dứt điểm nên cũng làm cản trở hoạt động của hợp tác xã.
Nguyên nhân của tình trạng yếu kém trên tập trung chủ yếu ở một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tập thể, bản chất, tính tất yếu khách quan của hợp tác xã trong cán bộ, đảng viên nhiều nơi còn chưa đầy đủ và thống nhất, chưa thật sự hiểu rõ sự khác biệt giữa hợp tác xã kiểu cũ trước đây với hợp tác xã kiểu mới, đánh đồng hợp tác xã với doanh nghiệp, công ty cổ phần. Đồng thời, một bộ phận xã viên, nhất là trong các hợp tác xã ở khu vực nông nghiệp, nông thôn vẫn còn tâm lý ỷ lại, trông chờ vào trợ giúp của Nhà nước. ý thức chấp hành và công tác tổ chức chỉ đạo thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về hợp tác xã chưa nghiêm túc, chưa kịp thời, đúng mức,... Do vậy, hợp tác xã chưa phát triển đều trên các địa bàn, các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, chưa tương xứng với vị trí, vai trò vốn có và nhu cầu hợp tác của đông đảo người lao động, hộ gia đình.
Hiện nay, nhiều người còn coi hợp tác xã giống như công ty cổ phần, dẫn đến tình trạng ở các địa phương đã xuất hiện hợp tác xã do một số nông dân giàu đóng cổ phần, ai nhiều cổ phần thì người ấy kiểm soát hợp tác xã khiến nông dân nghèo không muốn tham gia. Thực chất, đây là hợp tác xã trá hình, là các xí nghiệp tư nhân núp dưới cái lốt hợp tác xã. Trên thực tế doanh nghiệp tư nhân núp dưới hình thức hợp tác xã không những không phải đóng thuế, mà còn được hưởng những khoản hỗ trợ của Nhà nước (các nước đều có những chính sách này).
Thứ hai, những cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã của chúng ta đã được ban hành tương đối đầy đủ, đồng bộ, nhưng không được triển khai thực hiện tốt nên chưa mang lại hiệu quả như mong đợi. Ví dụ, về chính sách đất đai, đại bộ phận các hợp tác xã chưa được giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của Nghị định 181/2004/NĐ-CP và Nghị định 88/2005/NĐ-CP của Chính phủ. Từ sự chậm trễ này dẫn đến khó khăn trong lập kế hoạch đầu tư, vay vốn ngân hàng... Chính sách tín dụng vẫn chưa cải thiện được tình trạng thiếu vốn của hợp tác xã. Chính sách hạn chế huy động tiền gửi tiết kiệm của xã viên đối với dịch vụ tín dụng nội bộ của hợp tác xã làm hạn chế khả năng phát triển của dịch vụ này. Nhiều loại chính sách hỗ trợ hợp tác xã liên quan trực tiếp đến sử dụng ngân sách nhà nước (trừ chính sách thuế và đất đai), nhưng việc bố trí ngân sách còn gặp rất nhiều khó khăn. Có ý kiến phản ánh những bất cập về chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp và chính sách thuế VAT đối với hợp tác xã nông nghiệp. Trong khi đó, chính sách bảo hiểm xã hội được nhiều hợp tác xã đánh giá cao, nhưng ở nhiều nơi vẫn còn chưa có hướng dẫn cụ thể việc nộp bảo hiểm xã hội của cán bộ hợp tác xã, nên các tỉnh gặp nhiều lúng túng về vấn đề này, mỗi nơi làm một khác...
Thứ ba, mặc dù ở nhiều nơi hợp tác xã đã chuyển đổi sang hợp tác xã dịch vụ kiểu mới, nhưng vẫn không hoạt động được bởi lý do: những gì hợp tác xã làm được, thì nông dân chưa cần kíp lắm, cái khó khăn của nông dân hiện nay chủ yếu là thiếu đầu ra cho các nông sản và sản phẩm thủ công, thì hợp tác xã lại không lo được. Đa phần các hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp hiện nay chỉ lo giải quyết đầu vào cho sản xuất nông nghiệp như: điện, nước, giống, phân bón, bảo vệ thực vật v.v.. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, giá cả của các hàng hóa, dịch vụ đó cũng không rẻ hơn so với các cửa hàng đại lý.
Thứ tư, quá trình phát triển hợp tác xã cũng chưa có sự chỉ đạo sát sao việc tổng kết và tập trung xây dựng các mô hình, các điển hình tiên tiến để nhân rộng. Chưa quan tâm đúng mức đến việc xây dựng chiến lược và công tác kế hoạch. Đến nay, hầu như chưa có địa phương nào quan tâm xây dựng một chương trình dài hạn về phát triển tổng thể hợp tác xã trong từng lĩnh vực, ngành nghề.
Thứ năm, vai trò của một số tổ chức đảng, đoàn thể (như Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh) chưa được phát huy đúng mức, nhất là chưa phối - kết hợp đồng bộ với Liên minh Hợp tác xã Việt Nam, chưa tạo được phong trào có sức mạnh và mang tính hướng dẫn, dẫn dắt nông dân thoát khỏi sản xuất nhỏ lẻ vươn lên sản xuất hàng hóa lớn. Chẳng hạn, ở một số địa phương, việc dồn điền, đổi thửa, tích tụ ruộng đất đang diễn ra tự phát, làm hạn chế hiệu quả kinh tế - xã hội.
4 - Từ kinh nghiệm thực tiễn xây dựng và phát triển hợp tác xã ở các địa phương, Hội thảo đã chỉ ra rằng, để nâng cao hiệu quả phát triển hợp tác xã cần phải tôn trọng những điều kiện thực tế, đồng thời nghiên cứu áp dụng những kinh nghiệm phát triển hợp tác xã phù hợp với hoàn cảnh, yêu cầu cụ thể của Việt Nam. Có thể khái quát và rút ra một số vấn đề có tính nguyên tắc để phát triển hợp tác xã một cách bền vững, có hiệu quả là: phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm mục tiêu chính; trong đổi mới và phát triển kinh tế hợp tác xã cần hết sức coi trọng các nguyên tắc, giá trị đạo đức của hợp tác xã, đặc biệt là nguyên tắc dân chủ, tự nguyện, cùng có lợi của những thành viên tham gia, kết hợp hài hòa lợi ích của xã viên với lợi ích của hợp tác xã và cộng đồng; bảo đảm và phát huy tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của bản thân các hợp tác xã; phát triển vững chắc các hợp tác xã kiểu mới, tổng kết thực tiễn và nhân rộng những mô hình mới, điển hình tiên tiến, xuất sắc.
Việc xây dựng và phát triển hợp tác xã không chỉ là sự kế thừa thành tựu văn minh của nhân loại, là biểu hiện sinh động của sự gặp gỡ giữa văn minh phương Tây và phương Đông đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nghiên cứu, hoàn thiện và vận dụng vào Việt Nam, mà còn rất phù hợp với hoàn cảnh, trình độ phát triển kinh tế, nhận thức của nhân dân ta hiện nay, phù hợp với chủ trương phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng và Nhà nước. Trong bối cảnh đất nước hội nhập ngày càng toàn diện vào nền kinh tế thế giới, những nhu cầu hợp tác, liên kết, hỗ trợ lẫn nhau, cùng góp sức đầu tư phát triển và nâng cao sức cạnh tranh càng trở lên có ý nghĩa quan trọng. Vì vậy, trong thời gian tới cần phải tạo được sự chuyển biến mạnh mẽ, cơ bản trong thực tiễn phát triển hợp tác xã ở nước ta theo hướng:
- Phát triển hợp tác xã phải gắn bó mật thiết, phục vụ thực hiện thắng lợi đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Phát triển hợp tác xã phải hướng vào đáp ứng những nhu cầu kinh tế, văn hóa, xã hội của đông đảo các tầng lớp xã hội, liên kết rộng rãi mọi loại hình và tổ chức kinh tế, đặc biệt chú trọng đối tượng là người lao động, các hộ kinh tế cá thể, những đối tượng yếu thế trong cạnh tranh thị trường.
- Phát triển hợp tác xã cần được mở rộng trong mọi lĩnh vực, ngành nghề mà người dân có nhu cầu, trước hết tập trung phát triển hợp tác xã trong khu vực nông nghiệp, nông thôn, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm và nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển hợp tác xã ở nước ta.
- Phát triển hợp tác xã cũng cần phải quan tâm đến đặc điểm, điều kiện và thế mạnh của từng vùng, từng khu vực của đất nước.
- Phát triển hợp tác xã linh hoạt, đa dạng về hình thức, với nhiều trình độ phát triển từ thấp đến cao, từ làm dịch vụ sản xuất, đời sống cho các hộ thành viên, xã viên, đến mở mang ngành nghề, sản xuất kinh doanh tổng hợp.
5 - Qua nghiên cứu những nội dung cơ bản về hợp tác xã trong tư tưởng Hồ Chí Minh, các đại biểu đều nhận thức rõ tư tưởng của Người có giá trị nền tảng để chúng ta tiếp tục phát triển và tổ chức thực hiện. Từ những cơ sở lý luận về hợp tác xã trong tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn phát triển hợp tác xã ở nước ta những năm qua, Hội thảo đã phân tích, thảo luận những vấn đề nhằm:
- Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, thống nhất nhận thức, tạo môi trường tâm lý thuận lợi cho hợp tác xã phát triển. Cần làm cho cán bộ, đảng viên, nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn các quan điểm phát triển kinh tế tập thể đã được xác định trong Nghị quyết số 13-NQ/TW Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX). Cần phải nâng cao nhận thức cho mọi người hiểu đúng bản chất, nguyên tắc, các giá trị của hợp tác xã, phân biệt sự khác nhau giữa hợp tác xã kiểu cũ và mới..., thấy được nhu cầu phát triển tất yếu khách quan của hợp tác xã để không còn băn khoăn, nghi ngại bởi những định kiến cũ.
- Tiếp tục củng cố và phát triển các loại hình tổ hợp tác với nhiều hình thức đa dạng và linh hoạt, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới và phù hợp với năng lực quản lý, điều kiện kinh tế - kỹ thuật và tập quán lao động của người dân. Các tổ chức chính quyền, đảng, đoàn thể cơ sở phải tìm mọi cách tạo điều kiện thuận lợi nhất để các tổ hợp tác từng bước phát triển thành hợp tác xã. Đồng thời, tập trung vào củng cố, đổi mới và phát triển các mô hình hợp tác xã hoạt động có hiệu quả để hoàn thiện những mô hình tổ chức, quản lý hợp tác xã nhằm nhân rộng các điển hình. Tuy nhiên, tuyệt đối không gò ép, chạy theo phong trào.
Đẩy mạnh liên kết giữa các hợp tác xã với nhau cả về mặt kinh tế, xã hội và tổ chức, từng bước hình thành các liên hiệp hợp tác xã chuyên ngành, đa ngành vững mạnh và phát triển với quy mô khác nhau, từ liên hiệp hợp tác xã huyện, tỉnh tới các liên hiệp hợp tác xã liên tỉnh, liên vùng và trong phạm vi cả nước.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách đối với hợp tác xã trên cơ sở quan điểm hợp tác xã là tổ chức cộng đồng của người dân trên tinh thần tự nguyện, tự lực, tự trợ giúp, tự chịu trách nhiệm, vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã. Chính sách phải đủ mạnh, phù hợp với điều kiện tổ chức, hoạt động, dễ dàng triển khai thực hiện, được thống nhất và tổ chức thi hành trên phạm vi cả nước. Những bức xúc lớn nhất hiện nay của hợp tác xã cần được tập trung tháo gỡ là mặt bằng hoạt động, vốn, nguồn lực con người. Cụ thể là:
+ Về việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hợp tác xã nông nghiệp;
+ Về chính sách thuế, Bộ Tài chính cần có hướng dẫn cụ thể thực hiện chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp đối với hợp tác xã nông nghiệp như quy định tại Nghị định 88 và Nghị định 164 theo hướng để những dịch vụ phục vụ xã viên không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Nghiên cứu và giải quyết bất cập về thuế VAT đối với dịch vụ tiêu thụ nông sản của hợp tác xã nông nghiệp;
+ Về chính sách tín dụng, cần sửa đổi, bổ sung Thông tư 06/2004/TT-NHNN và Thông tư 04/2007/TT-NHNN theo hướng cho phép các hợp tác xã mở rộng giới hạn huy động tiền tiết kiệm nhàn rỗi của xã viên hơn nữa. Nghiên cứu và bổ sung các hướng dẫn, quy định để có nhiều hợp tác xã nông nghiệp có nhu cầu được vay vốn. Nhanh chóng bổ sung các quy định của Quyết định 146 để thực hiện triệt để xóa nợ tồn đọng cũ của các hợp tác xã nông nghiệp;
+ Về chính sách bảo hiểm xã hội cho cán bộ hợp tác xã, cần quy định chế độ và có hướng dẫn chung các hợp tác xã về mua bảo hiểm xã hội...
- Tổ chức triển khai thực hiện tốt các chính sách khuyến khích hỗ trợ của Nhà nước đối với hợp tác xã. Muốn vậy, cần thiết phải đổi mới phương thức lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền địa phương, coi chỉ đạo phát triển hợp tác xã là một nhiệm vụ trọng tâm và thường xuyên, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể, Liên minh hợp tác xã ở các cấp, phối hợp chặt chẽ hoạt động của những tổ chức này trong việc xây dựng và phát triển hợp tác xã để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, hỗ trợ những hợp tác xã còn yếu kém vươn lên.
- Tăng cường hỗ trợ các hợp tác xã trong việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ, tư vấn, cung cấp thông tin thị trường và trợ giúp tháo gỡ những khó khăn trong cung ứng vật tư, tiêu thụ sản phẩm của hợp tác xã; mở rộng liên kết giữa hợp tác xã và các thành phần kinh tế khác; đẩy mạnh hợp tác quốc tế; có những công trình nghiên cứu từ các hợp tác xã để vận dụng cụ thể vào thực tiễn, có biện pháp lồng ghép kế hoạch phát triển kinh tế tập thể trong các chương trình, dự án, đề án phát triển kinh tế, xã hội ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
* * *
Ngoài những vấn đề lý luận về hợp tác xã trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh và thực tiễn phát triển hợp tác xã ở Việt Nam đã được thảo luận, nhất trí, Hội thảo còn gợi ra nhiều vấn đề mới mẻ cần được quan tâm, chúng tôi mong rằng các nhà khoa học, các nhà quản lý sẽ tiếp tục nghiên cứu, tổng kết để có thêm cơ sở khoa học cho việc hoạch định các chính sách, thúc đẩy sự phát triển hợp tác xã ngày càng có hiệu quả hơn, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp  (12/11/2007)
Vai trò của Nhà nước trong việc nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp ở nông thôn  (12/11/2007)
Tăng cường nhận thức lý luận chính trị đối với cán bộ, đảng viên theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5, khóa X  (12/11/2007)
Việt Nam như tôi đã thấy (1960-2000)  (10/11/2007)
Chính trị khu vực Đông Bắc Á từ sau chiến tranh lạnh  (10/11/2007)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay