Xây dựng nền ngoại giao thời đại mới: Chuyên nghiệp, toàn diện, hiện đại
TCCS - Với thế và lực sau 40 năm đổi mới, Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu xây dựng một nền ngoại giao thời đại mới, tương xứng với tầm vóc mới của đất nước khi bước vào kỷ nguyên mới với những nhu cầu phát triển vượt bậc, đột phá. Do đó, việc xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn để phát triển một nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại trong thời đại mới nhằm tranh thủ và vận dụng được hết các cơ hội của kỷ nguyên mới, phục vụ tối đa lợi ích quốc gia - dân tộc là vô cùng quan trọng.
Cơ sở lý luận về xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại
Ngoại giao hiện đại (modern diplomacy; contemporary diplomacy) là khái niệm được quốc tế sử dụng để phân biệt với ngoại giao truyền thống. Có 3 mốc thường được sử dụng để phân biệt ngoại giao hiện đại với ngoại giao truyền thống, đó là: (i) Hoà ước Westphalia năm 1684 với sự ra đời của quốc gia - dân tộc với tư cách là chủ thể chính trong quan hệ quốc tế; cùng với việc hình thành tập quán ngoại giao mới là việc mở cơ quan đại diện thường trực của một nước ở nước khác; (ii) Sự ra đời của Hội quốc liên sau Chiến tranh thế giới thứ I, với sự ra đời và phổ biến của ngoại giao đa phương; (iii) Sự ra đời của Công ước Vienna về quan hệ ngoại giao năm 1961, quy định nhiều quy tắc và thủ tục ngoại giao để chuẩn hoá hoạt động ngoại giao trên bình diện toàn cầu.
Một số xu thế ngoại giao hiện đại thế giới hiện nay
Ngoại giao truyền thống thế giới có đặc trưng là lấy ngoại giao nhà nước làm trung tâm, do bộ ngoại giao các nước làm công cụ thúc đẩy chủ đạo và giao thiệp với bên ngoài thông qua các kênh và hình thức truyền thống. Ngoại giao hiện đại trong thế kỷ XXI về cơ bản tiếp tục các chức năng, phương pháp của ngoại giao truyền thống, tuy nhiên cũng đã và đang có nhiều thay đổi để thích ứng với những biến chuyển to lớn về kinh tế, kỹ thuật và chính trị - xã hội quốc tế. Theo đó, chủ thể, mục tiêu, chức năng, phạm vi, không gian, công cụ, phương tiện của ngoại giao đều đã và đang có những cập nhật, điều chỉnh. Cụ thể là:
- Nhiều chủ thể mới xuất hiện: Ngoại giao ngày nay không chỉ do nhà nước thực hiện mà có nhiều chủ thể mới, như các tổ chức phi chính phủ, phi nhà nước, do các địa phương, các thành phố lớn, các doanh nghiệp, tập đoàn lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia, các cá nhân, nhất là các cá nhân có ảnh hưởng quốc tế cùng tham gia. Sự gia tăng chủ thể tham gia đối ngoại còn biểu hiện ở việc ngày càng nhiều nước áp dụng cách tiếp cận “toàn chính phủ” trong đối ngoại, trong đó các bộ ngoại giao không còn là chủ thể duy nhất mà nhiều bộ ngành khác cùng tham gia, trong đó bộ ngoại giao ngày càng đóng vai trò chủ thể tiên phong, dẫn dắt, điều phối (1).
- Mục tiêu, chức năng mới: Ngoại giao ngày nay không chỉ phục vụ lợi ích quốc gia theo nghĩa hẹp mà còn phục vụ lợi ích của doanh nghiệp, người dân, các địa phương bên trong quốc gia; bảo vệ lợi ích chung của khu vực và của cộng đồng quốc tế. Ngoại giao ngày càng có trọng trách thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xúc tiến thương hiệu quốc gia, đóng góp nhiều vào mục tiêu quản trị bên ngoài quốc gia.
- Nội dung, lĩnh vực mới: Ngoại giao hiện đại không chỉ bó hẹp trong các vấn đề chính trị, an ninh, thương mại truyền thống mà mở rộng sang đa lĩnh vực, như năng lượng, môi trường, tài chính, nhân quyền, y tế, thông tin, tội phạm xuyên quốc gia, công nghệ...
- Không gian mới: Ngoại giao được tiến hành trong nhiều không gian, như không gian đa phương, không gian học thuật, không gian mạng, không gian truyền thông.
- Công cụ, phương tiện mới: Ngoại giao ngày càng sử dụng nhiều công cụ, biện pháp tân tiến nhằm phát triển và kiểm soát quan hệ, như các công cụ pháp lý, thiết lập các khuôn khổ đối tác, công cụ truyền thông, công cụ văn hoá, công cụ quân sự, quốc phòng.... Ngoài ra còn các công cụ khác, như ngoại giao kênh 2 (hoạt động trao đổi giữa các học giả, chuyên gia có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại, song không đại diện cho quốc gia), ngoại giao cá nhân lãnh đạo. Phương tiện tiến hành các hoạt động ngoại giao được hiện đại hoá cùng với các bước phát triển của công nghệ thông tin và đi lại xuyên quốc gia, như ngoại giao số, ngoại giao con thoi, ngoại giao bên lề.
- Phong cách: Ngoại giao hiện đại có phong cách linh hoạt hơn, phi chính thức hơn (như ngoại giao không caravat); chú trọng hơn tính minh bạch, gần vũi với công chúng, chú trọng không gian đa văn hoá, bình đẳng giới...
- Yêu cầu mới với cán bộ ngoại giao: Môi trường làm việc thay đổi, tính chất công việc thay đổi khiến các nhà ngoại giao cũng cần có các tố chất mới. Không chỉ là các “công dân toàn cầu”, có khả năng ngôn ngữ, có hiểu biết và nhạy cảm về văn hoá và nghi lễ, có kiến thức tổng hợp, mà nhà ngoại giao hiện đại còn cần khả năng làm việc trong môi trường đa văn hoá, đa phương tiện; có kiến thức chuyên sâu, là chuyên gia thực thụ trong một số lĩnh vực; hiểu biết, có khả năng đồng hành với các bộ, ngành, doanh nghiệp, người dân và đóng góp thực chất cho các lợi ích cụ thể của các chủ thể ở bên trong quốc gia.
Như vậy, có thể thấy so với ngoại giao truyền thống chú trọng quan hệ song phương giữa các chủ thể nhà nước với nhau, ngoại giao hiện đại đã phát triển thành một mạng lưới khá phức tạp với sự tham gia của nhiều chủ thể, nhiều tầng nấc, bao gồm các tổ chức phi chính phủ, các tập đoàn đa quốc gia và các tổ chức quốc tế. Sự tham gia của các chủ thể phi nhà nước này đã làm thay đổi đáng kể bối cảnh ngoại giao, mở rộng phạm vi của ngoại giao sang các lĩnh vực kinh tế, thương mại, văn hóa và nhân đạo, làm đa dạng hoá hình thức và nội dung của các hoạt động ngoại giao, tạo ra sự cạnh tranh, thậm chí mâu thuẫn lợi ích giữa các chủ thể khác nhau. Dư luận xã hội cũng đóng vai trò quan trọng hơn trong việc định hình chính sách đối ngoại, khiến các nhà ngoại giao phải minh bạch và có trách nhiệm hơn. Ngoài ra, sự phát triển của công nghệ số và mạng xã hội đã tạo ra không gian ngoại giao mới, nơi thông tin lan truyền nhanh chóng và cảm xúc được khuếch đại, đòi hỏi các nhà ngoại giao phải thích ứng và sử dụng các công cụ kỹ thuật số một cách hiệu quả.
Quá trình phát triển nhận thức và chủ trương xây dựng nền ngoại giao toàn diện và hiện đại của Việt Nam
Nền đối ngoại, ngoại giao toàn diện, hiện đại của Việt Nam hiện nay được xây dựng trên cơ sở lý luận và thực tiễn, phát triển trên nền tảng của bản sắc ngoại giao truyền thống cha ông ta, sự kế thừa và vận dụng nhuần nhuyễn nhưng sáng tạo tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh và trên cơ sở tiếp thu và hội nhập có chọn lọc các xu thế mới của nền ngoại giao hiện đại thế giới.
Tính toàn diện của nền ngoại giao Việt Nam thể hiện ở chủ thể thực hiện đối ngoại, bao gồm cả hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và nhân dân; trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế - xã hội; với tất cả đối tác, địa bàn, khu vực, trọng tâm là đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương quan trọng có tầm chiến lược.(2)
Ngoại giao hiện đại thể hiện ở nội dung, phương pháp triển khai, cách thức quản trị của ngoại giao trong tình hình mới, trong đó nhấn mạnh sự thích ứng với các yếu tố, như ứng dụng công nghệ thông tin, ngoại giao số, ngoại giao trực tuyến, ngoại giao thượng đỉnh... Tính hiện đại của ngoại giao Việt Nam thể hiện ở sự vận hành ngành ngoại giao trong khuôn khổ thể chế ngày càng hoàn thiện; tổ chức bộ máy tinh gọn, hiệu quả với phương thức hoạt động khoa học, chuẩn hóa và số hóa, có năng lực đổi mới, sáng tạo và chủ động thích ứng với chuyển biến mau lẹ của tình hình.
Để có nhận thức và chủ trương trên, Đảng và Nhà nước ta đã trải qua một quá trình xây dựng, phát triển, thích ứng nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam ngày càng toàn diện và hiện đại, phù hợp với bối cảnh quốc tế, bối cảnh trong nước và lợi ích quốc gia của Việt Nam. Cụ thể như sau:
Quá trình phát triển chủ trương của Đảng về xây dựng nền ngoại giao toàn diện thời kỳ đổi mới
- Toàn diện về lĩnh vực, từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới, lĩnh vực hoạt động của ngoại giao Việt Nam ngày càng mở rộng, đặc biệt là mở sang lĩnh vực kinh tế, phục vụ phát triển. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng lần đầu tiên đề cập khái niệm “hội nhập kinh tế” . Đồng thời, Đảng đã đưa ra yêu cầu “phối hợp chặt chẽ hoạt động quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại”. Đối với các lĩnh vực công tác khác cũng dần được chú trọng, như công tác thông tin đối ngoại và văn hoá đối ngoại, công tác về biên giới, lãnh thổ, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài và bảo hộ công dân. Về yêu cầu phối hợp giữa hai trụ cột ngoại giao, tại Đại hội X, Báo cáo chính trị của Đảng đã thể hiện rõ ràng hơn là “chính trị và kinh tế đối ngoại”, giữa “đối ngoại, quốc phòng và an ninh” và giữa “thông tin đối ngoại và thông tin trong nước”.(3) Đại hội XI, Đảng đề ra yêu cầu phối hợp chặt chẽ giữa “ngoại giao chính trị với ngoại giao kinh tế và ngoại giao văn hóa”(4). Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội và đối ngoại”(5).
- Toàn diện về kênh đối ngoại và thống nhất quản lý các hoạt động đối ngoại. Đại hội IX của Đảng đã đề ra yêu cầu “phối hợp chặt chẽ hoạt động ngoại giao của Nhà nước, hoạt động đối ngoại của Đảng và hoạt động đối ngoại nhân dân”(6), cụ thể là “hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại” nhằm tạo nên “sức mạnh tổng hợp thực hiện có kết quả nhiệm vụ công tác đối ngoại”(7). Đại hội X của Đảng tiếp tục yêu cầu “bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại”(8). Đại hội XIII của Đảng đặt ra mục tiêu “Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân”, đồng thời, yêu cầu thống nhất quản lý đối ngoại được cập nhật, bổ sung trong Báo cáo chính trị, như “bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế”(9). Điều này khẳng định mạnh mẽ vai trò bao trùm và định hướng của Đảng đối với công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam.
- Toàn diện về chủ thể tham gia. Đại hội IX của Đảng đề ra chủ trương “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực” với sự tham gia của Chính phủ, các bộ, ngành và doanh nghiệp trong việc “xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế quốc tế”(10). Cùng với định hướng “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, Đại hội XII của Đảng có bước chuyển mới về nhận thức, coi hội nhập quốc tế là “sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị”(11). Nhận thức sâu sắc về xu hướng toàn cầu hoá và liên kết trong thời kỳ hội nhập toàn diện, tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu “triển khai đồng bộ, sáng tạo, hiệu quả các hoạt động đối ngoại, bao gồm đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; đối ngoại của các cấp, các ngành, các địa phương, các cơ quan, đơn vị, cộng đồng các doanh nghiệp” và “nâng cao hơn nữa hiệu quả phối hợp giữa các bộ, ban, ngành và địa phương… trong triển khai công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế của đất nước”. Qua đó, khẳng định công tác đối ngoại là một sự nghiệp của không chỉ của các cơ quan chuyên ngành, như Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Ngoại giao, mà của tất cả các cấp, các ngành, địa phương và doanh nghiệp trên cả nước.
- Toàn diện về đối tượng phục vụ. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập toàn diện và sâu rộng, Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 đề ra định hướng “xây dựng nền ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, lấy người dân, địa phương và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ” và đề ra yêu cầu ngoại giao bảo vệ các “lợi ích chính đáng của Nhà nước, doanh nghiệp và người dân Việt Nam” trong quá trình hội nhập quốc tế(12). Đảng nhấn mạnh ngoại giao cần phục vụ cho các chủ thể chính ngoài nhà nước, như người dân, địa phương và doanh nghiệp, không chỉ bên trong, mà còn bên ngoài lãnh thổ quốc gia, vì mục tiêu phát triển của đất nước, trong đó có các cột mốc năm 2025, 2030 và 2045 được đề ra tại Đại hội XIII của Đảng.
- Toàn diện trên các địa bàn và mặt trận tham gia. Đại hội IX của Đảng đề ra chủ trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ…, mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và hợp tác với các tổ chức phi chính phủ trong nước và nước ngoài. Đại hội XI của Đảng ta lần đầu tiên đưa ra chủ trương tham gia “các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương” và tiếp tục mở rộng tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phương khu vực và trên thế giới(13). Đại hội XII đặt ra yêu cầu mới cao hơn đối với ngoại giao đa phương, đó là “chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương”, chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc”. Đến Đại hội XIII, chủ trương “đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ” với các nước láng giềng, đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, đối tác quan trọng và bạn bè truyền thống, đồng thời tiếp tục mở rộng quan hệ hợp tác với các “lực lượng chính trị, xã hội và nhân dân các nước”. Về đa phương, Đảng ta chủ trương “nâng tầm đối ngoại đa phương” và yêu cầu cần phải “chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế” (14).
Quá trình phát triển chủ trương của Đảng về xây dựng nền ngoại giao hiện đại
- Hiện đại trong chức năng của ngoại giao. Chủ trương của Đảng về chức năng của ngoại giao đã có sự phát triển qua các kỳ đại hội. Đến Đại hội XII, chức năng của ngoại giao được nâng tầm, trong đó thay đổi từ “giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá” thành “tranh thủ tối đa các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao đời sống nhân dân”. Đại hội XIII, lần đầu tiên Đảng nhận định: “tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”(15). Đây là bước phát triển rất mới trong tầm nhìn chiến lược của Đảng, vừa là sự ghi nhận vai trò quan trọng của đối ngoại, vừa đặt ra những nhiệm vụ rất nặng nề cho giai đoạn tới.
- Hiện đại trong mối quan hệ giữa chính sách đối ngoại và chính sách đối nội. Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định “đối ngoại không chỉ là sự nối tiếp của chính sách đối nội mà còn là một động lực mạnh mẽ góp phần xứng đáng vào việc thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Tư tưởng này tiếp tục được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nâng cao, nhấn mạnh tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc năm 2021: “Hai vấn đề này có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng, tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau như hai cái cánh của một con chim, tạo thế và lực cho nhau, gắn kết và đan xen ngày càng chặt chẽ với nhau, nhất là trong điều kiện toàn cầu hoá phát triển mạnh mẽ và sâu rộng”. Hình tượng “hai cánh của một con chim” đã thể hiện một cách cô đọng nhưng không kém phần sinh động về tương tác giữa đối ngoại và đối nội trong bối cảnh mới.
- Hiện đại hoá công tác cán bộ. Đảng luôn chú trọng công tác cán bộ, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ, trong đó đó cán bộ đối ngoại. Xuyên suốt từ Đại hội IX đến Đại hội XII, chủ trương của Đảng là “chăm lo đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại” và chủ trương này được củng cố tại Đại hội XIII: “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình”.(16) Có thể thấy, việc bổ sung yêu cầu “chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình” đã thể hiện nội hàm quan trọng của ngoại giao hiện đại với yêu cầu về cán bộ đối ngoại để theo kịp các vấn đề mới, các thay đổi đổi nhanh chóng, phức tạp, khó lường của môi trường quốc tế.
- Hiện đại hoá cơ chế tổ chức, quy trình phối hợp. Việc hiện đại hoá công tác đối ngoại được Đảng yêu cầu thực hiện ở tất cả các bước, các lĩnh vực và các cấp. Điều đó được thể hiện qua các kỳ đại hội đảng. Đại hội IX đề ra yêu cầu “hoàn thiện cơ chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp thực hiện có kết quả nhiệm vụ công tác đối ngoại”(17). Đại hội X nêu rõ: “đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị”. Đại hội XIII tiếp tục nhấn mạnh “tăng cường cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các kênh và các cơ quan đối ngoại, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế”(18). Tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc năm 2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đưa cơ chế, quy trình vào một trong các vấn đề cần làm để triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp được đề ra, “đồng thời, tiếp tục rà soát, đổi mới hệ thống tổ chức và quản lý, sắp xếp, kiện toàn, nâng cao trình độ, năng lực tổ chức bộ máy của Ban Đối ngoại Trung ương, Bộ Ngoại giao, Bộ Công Thương và các bộ, ngành, địa phương, nhất là các cơ quan, đơn vị có chức năng làm công tác đối ngoại, từ các cơ quan đại diện của ta ở nước ngoài đến các đơn vị trong nước, hướng tới tổ chức tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả theo đúng tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá XII về vấn đề này”.
- Hiện đại hoá về phương tiện, cách làm. Sự phát triển trong tư duy hiện đại về phương tiện, cách làm có sự gắn kết chặt chẽ với bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đảng ta đã nhanh chóng đưa ra những chủ trương nhận định về vấn đề này, như “chủ động, tích cực tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là yêu cầu tất yếu khách quan, là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đặc biệt quan trọng, vừa cấp bách vừa lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, gắn chặt với quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng”(19). Trong bối cảnh đó, việc đổi mới phương thức thực hiện ngoại giao, đặc biệt là công tác tuyên truyền đối ngoại là yêu cầu tất yếu. Đại hội XII đề ra chủ trương “đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại”(20). Chiến lược kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 đặt ra yêu cầu “Tăng cường và nâng cao hiệu quả ứng dụng công nghệ truyền thông mới, mạng xã hội trong thông tin đối ngoại và đấu tranh dư luận”. Những yêu cầu trên đã được khái quát trong phát biểu chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trong tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc năm 2021: “Mạnh dạn đột phá, sáng tạo trong công tác, tìm ra cách làm mới, mở rộng ra các lĩnh vực mới, tìm kiếm các đối tác mới, hướng đi mới”.
Để định hướng xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại trên tinh thần của Nghị quyết Đại hội XIII, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có một số chỉ đạo cụ thể, sâu sắc về phương hướng lớn, nhiệm vụ cụ thể nhằm triển khai chủ trương của Đại hội XIII về xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại. Cụ thể: (i) Tăng cường tính đồng bộ, toàn diện của đối ngoại; (ii) Không ngừng đổi mới về “tư duy đối ngoại”; (iii) Đối với công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu, cần phải “tầm nhìn phải rộng”, “suy nghĩ phải sâu”, “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”; (iv) Phát huy vai trò “tiên phong” của đối ngoại, ngoại giao; (v) Tăng cường xây dựng quan hệ với các nước đối tác; (vi) Huy động các nguồn lực bên ngoài phục vụ mục tiêu phát triển đất nước; (vii) Nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; (viii) Kiện toàn tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại; (ix) Tăng cường làm đậm đà bản sắc “cây tre Việt Nam” của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại.
Trong thời gian tới, Việt Nam hướng tới xây dựng “nền ngoại giao thời đại mới”, đó là nền ngoại giao phải góp phần thúc đẩy sự tham gia, đóng góp của đất nước vào sự phân công lao động quốc tế, phát triển kinh tế toàn cầu và duy trì hòa bình, ổn định. Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cho rằng với thế và lực sau gần 40 năm đổi mới đất nước, Việt Nam đang đứng trước khởi điểm lịch sử mới, kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Do đó, ngoại giao Việt Nam cần mở rộng đóng góp của Việt Nam cho sự nghiệp cách mạng thế giới, cho hòa bình, hợp tác, phát triển và tiến bộ của nhân loại.(21)
Thuận lợi và khó khăn, hạn chế trong xây dựng nền ngoại giao chuyên nghiệp toàn diện, hiện đại
Thực tiễn triển khai công tác đối ngoại, ngoại giao trong gần 40 năm đổi mới đã cho thấy các mặt thuận lợi cũng như thách thức đối với công tác này hiện nay:
- Các thuận lợi cơ bản
Thứ nhất, mục tiêu xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đã được ghi nhận ở các văn bản và nghị quyết quan trọng của Đảng, được các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của ngành đối ngoại và thường xuyên quan tâm đôn đốc, chỉ đạo toàn bộ hệ thống chính trị cùng thực hiện. Thứ hai, sau nhiều năm thực hiện chủ trương hội nhập quốc tế toàn diện, nhận thức và năng lực đối ngoại của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đã được cải thiện đáng kể, tạo thuận lợi hơn cho việc huy động các trụ cột và "binh chủng" của đối ngoại cùng tham gia xây dựng nền ngoại giao toàn diện và từng bước hiện đại hoá công tác đối ngoại. Thứ ba, môi trường luật pháp, thể chế đã được từng bước hoàn thiện, góp phần tăng cường hiệu quả phối hợp giữa các "binh chủng" và trụ cột của đối ngoại, qua đó góp phần nâng cao hiệu quả chung của nền ngoại giao toàn diện. Thứ tư, cán bộ làm đối ngoại ở các ban, bộ, ngành nói chung và ở Bộ Ngoại giao nói riêng đang ngày càng trưởng thành, chuyên nghiệp, là nhân tố tích cực góp phần thực hiện thành công mục tiêu hiện đại hóa ngành ngoại giao. Thứ năm, lĩnh vực đối ngoại tiếp tục nhận được sự quan tâm, đầu tư, cải thiện điều kiện và phương thức làm việc để có điều kiện theo kịp và hội nhập với xu thế khu vực và thế giới của ngành đối ngoại.
- Những khó khăn, hạn chế
Về khách quan: Thứ nhất, với bên ngoài, sự xuất hiện nhiều loại chủ thể mới, đa dạng và phong phú, có vai trò và quan hệ bất tương xứng với các chủ thể truyền thống là nhà nước gây khó khăn nhất định trong xác lập quy tắc tương tác. Với bên trong, môi trường hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện, các mối quan hệ, hợp tác, tương tác, liên kết với bên ngoài diễn ra nhiều cấp, nhiều chiều, cộng với phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, mạng internet… khiến cho việc theo dõi, quản lý, kiểm soát, điều phối hoạt động đối ngoại khá khó khăn, phức tạp. Thứ hai, môi trường quốc tế đang thay đổi nhanh chóng hiện nay, nhất là bối cảnh cạnh tranh địa - chính trị, cạnh tranh giá trị và mô thức quản trị quốc gia gay gắt, môi trường đối ngoại càng trở nên phức tạp tạo không ít khó khăn cho việc thống nhất nhận thức, đánh giá về tình hình thế giới, về nhận diện đối tác, đối tượng trong môi trường quốc tế để có thể phối hợp hành động hiệu quả giữa các chủ thể cùng tham gia vào hoạt động đối ngoại. Thứ ba, việc đa dạng hoá, toàn diện hoá chủ thể và nội dung tham gia vào các hoạt động đối ngoại là xu thế tất yếu, khách quan, song cũng tạo ra cam kết và nghĩa vụ ngày càng cao, tăng dần theo thời gian hội nhập quốc tế nói chung, tạo nên những áp lực về nguồn lực cho cả hệ thống chính trị và những thách thức không nhỏ trong việc tuân thủ và bảo đảm thực thi đồng đều các cam kết đó với tất cả các chủ thể tham gia các hoạt động đối ngoại. Thứ tư, yêu cầu đối với cán bộ đối ngoại trong kỷ nguyên toàn cầu hóa, kỷ nguyên hội nhập quốc tế sâu rộng ngày càng cao, cán bộ làm đối ngoại không thể chỉ giỏi đều mà cần có chuyên môn sâu trong các lĩnh vực chuyên ngành khác và làm chủ nhiều kỹ năng, đặc biệt làm chủ các phương tiện công nghệ mới…, đồng thời, phải nhanh chóng thích nghi, đáp ứng được nhiều yêu cầu mới phát sinh với một cán bộ ngoại giao hiện đại.
Về chủ quan: Về nhận thức, tuy đã là một chủ trương lớn của Đảng, song vẫn chưa có sự thống nhất về khái niệm thế nào là “ngoại giao hiện đại” ở cả bình diện quốc tế và ở Việt Nam. Mối quan hệ giữa ngoại giao hiện đại và ngoại giao truyền thống, giữa ngoại giao phổ thông và ngoại giao chuyên nghiệp cũng chưa được làm rõ, dẫn tới việc chưa phân định rõ vai trò, chức năng của các chủ thể tham gia công tác đối ngoại, ngoại giao. Về năng lực, mặc dù năng lực của các cơ quan, ban, ngành tham gia công tác đối ngoại đã được cải thiện nhiều, song vẫn chưa đồng đều và đôi khi chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ. Năng lực nắm bắt tình hình khu vực và quốc tế, nắm bắt những xu thế mới, phát hiện và nắm bắt những điều chỉnh trong lợi ích và chính sách của đối tác, đối tượng để có tham mưu chính sách phù hợp còn hạn chế. Về cơ chế, còn thiếu vắng các cơ chế thực sự hiệu quả để tăng cường công tác chỉ đạo, phối hợp, điều phối giữa các trụ cột và "binh chủng" của đối ngoại, khiến các quyết tâm chính trị ở cấp cao đôi khi chưa được chuyển hoá thành hành động, hiệu quả phối hợp chưa cao; các quyết sách về đối ngoại chưa kịp thời. Về thể chế, vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập, như môi trường luật pháp vừa thừa, vừa thiếu; thừa vì nhiều quy định chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau; thiếu vì có những chủ thể đối ngoại hiện đại chưa được thể chế hoá, chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng tạo ra các vướng mắc trong quá trình triển khai. Về tổ chức, bộ máy, việc tổ chức lại bộ máy đối ngoại, ngoại giao theo hướng hiện đại, hiệu quả, chuyên nghiệp còn chưa theo kịp yêu cầu thực tế; cơ chế thông tin, phối hợp, tham gia hoạch định chính sách giữa trung tâm và các cơ quan đại diện còn cần được cải tiến. Việc xây dựng cơ chế chuyên gia; việc tổ chức, sắp xếp các đơn vị của Bộ Ngoại giao để phản ảnh các vấn đề nổi lên trong quan hệ quốc tế đương đại còn ý kiến khác nhau.
Tựu trung lại: “Chúng ta còn thiếu những giải pháp đồng bộ, hữu hiệu để hạn chế tối đa các tác động tiêu cực trong quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế; nhận thức và chỉ đạo thực tiễn có lúc chưa theo kịp những chuyển biến mau lẹ, phức tạp của tình hình; sự phối hợp, kết hợp giữa các ngành, các cấp, các địa phương còn thiếu chặt chẽ”(22) - là các khó khăn, hạn chế cơ bản trên tiến trình xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại hiện nay.
- Một số bài học lớn trong triển khai xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại thời gian qua
Thứ nhất, đổi mới tư duy. Xây dựng một nền ngoại giao toàn diện, hiện đại xứng tầm với nhiệm vụ cần phải có một tư duy mới phù hợp với hiện trạng của thế giới và quan hệ quốc tế ngày nay, một tầm nhìn phù hợp về vai trò, vị thế của Việt Nam và đối ngoại Việt Nam trong môi trường quốc tế mới; một nhận thức đầy đủ về vai trò thay đổi của ngoại giao trong thế giới toàn cầu hóa, tuỳ thuộc lẫn nhau và chịu tác động sâu sắc của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Thứ hai, sự lãnh đạo của Đảng và quyết tâm của cả hệ thống chính trị. Đối ngoại là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, do vậy để nền ngoại giao thực sự toàn diện và hiện đại, cần sự lãnh đạo thường xuyên, liên tục của Đảng và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị. Sự nghiệp xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại không thể là nhiệm vụ chỉ của một cơ quan, ban, ngành nào mà cần sự phối hợp đồng bộ, chặt chẽ của tất cả các trụ cột, "binh chủng" của đối ngoại, sự hưởng ứng và hợp tác của tất cả các địa phương và sự ủng hộ của các doanh nghiệp, người dân.
Thứ ba, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. Chủ động trong việc nhận diện các lĩnh vực, không gian, hình thức hoạt động mới của đối ngoại; trên cơ sở đó, xây dựng và chuẩn bị các năng lực cần thiết, chuẩn bị con người và nguồn lực. Linh hoạt, sáng tạo trong triển khai các nhiệm vụ đối ngoại phù hợp với đặc thù nhiệm vụ của từng cơ quan, ban, ngành, không nhất thiết phải luôn cùng theo một hình mẫu.
Thứ tư, có một cơ quan điều phối đủ mạnh. Thực tiễn cho thấy một nền ngoại giao có nhiều chủ thể tham gia rất cần một cơ quan điều phối đủ mạnh, có đủ nguồn lực để hỗ trợ, điều phối hoạt động đối ngoại của các cơ quan khác; đủ khả năng tham mưu cho lãnh đạo có các quyết sách kịp thời trong các tình huống cần có sự tham gia phối hợp của nhiều cơ quan trong việc ban hành quyết sách đó.
Thứ năm, yếu tố con người là then chốt. Con người vừa là chủ thể, vừa là công cụ quan trọng nhất để triển khai ngoại giao toàn diện, hiện đại, là nhân tố quyết định thành bại của một nền ngoại giao toàn diện, hiện đại. Do vậy, công tác cán bộ cần được quan tâm, chú trọng hàng đầu trong việc xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại, nhất là việc đào tạo cán bộ có kiến thức, kỹ năng cần thiết: khả năng phân tích, đánh giá tình hình khu vực và quốc tế; năng lực làm việc trong môi trường đa văn hoá; khả năng thích ứng; kỹ năng giao tiếp.
Một số giải pháp xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại
Thực tiễn cho thấy khi “ngoại giao hiện đại” phát triển theo hướng ngày càng mở hơn, sự tham gia ngày càng rộng rãi hơn, quy chuẩn ngày càng linh hoạt, hình thức ngày càng phong phú thì vai trò của “ngoại giao chuyên nghiệp” không những không bị cạnh tranh, thách thức mà còn trở nên ngày càng quan trọng hơn, với tư cách là lực lượng xung kích, tiên phong mở đường, vừa là lực lượng nòng cốt để triển khai các chiến lược và chiến dịch đối ngoại lớn của Đảng và Nhà nước, vừa là lực lượng có vai trò điều phối, hỗ sự các trụ cột và "binh chủng" đối ngoại khác của Đảng và Nhà nước. Yêu cầu vừa hiện đại hóa, vừa chuyên nghiệp hóa là hai mục tiêu đồng thời, bổ trợ và song hành trong tiến trình xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại.
Ngoại giao Việt Nam cũng cần khắc phục các khó khăn, hạn chế và tiếp tục tiếp thu có chọn lọc các nét mới, tinh hoa của ngoại giao hiện đại thế giới, qua đó giúp nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nền ngoại giao toàn diện, hiện đại Việt Nam. Do đó, cần nghiên cứu, thực hiện đồng bộ một số định hướng giải pháp xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại thời gian tới:
Về chức năng, nhiệm vụ của ngành ngoại giao
Với xu thế hiện nay của ngoại giao hiện đại, ngoại giao Việt Nam nên được trao sứ mệnh vươn mạnh hơn nữa ra thế giới, không chỉ đóng vai trò tiên phong trong việc tìm đường, mở lối, nắm bắt sớm các xu thế thế giới và có biện pháp bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, mà ngoại giao cần đóng vai trò chủ chốt trong việc triển khai các chiến lược đối ngoại lớn cũng như xử lý các tình huống đối ngoại phát sinh, như định hình môi trường đối ngoại, giải quyết các khủng hoảng trong khu vực và quốc tế tác động tới Việt Nam. Việc vươn tầm ra khu vực và toàn cầu, khởi xướng và tổ chức các sáng kiến đóng góp cho việc định hình xu thế phát triển hoà bình, hữu nghị và tiến bộ của cộng đồng quốc tế cần trở thành sứ mệnh chiến lược của ngoại giao Việt Nam.
Bên cạnh đó, ngoại giao Việt Nam cũng cần được trao nguồn lực để có thể đẩy mạnh hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc tận dụng các hiệp định thương mại tự do (FTA). Việc cung cấp thông tin và hướng dẫn cụ thể giúp các doanh nghiệp hiểu rõ hơn về các thị trường quốc tế, giảm thiểu rủi ro và gia tăng cơ hội hợp tác kinh tế, đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước cần trở thành nhiệm vụ hằng ngày của các cơ quan ngoại giao trong và ngoài nước.
Về công cụ, biện pháp ngoại giao
Các trụ cột của đối ngoại (đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân) và các công cụ ngoại giao hiện đại, như ngoại giao văn hoá, ngoại giao quốc phòng - an ninh, ngoại giao công chúng, ngoại giao bán chính thức (ngoại giao cá nhân lãnh đạo, ngoại giao kênh 1,5; kênh 2)... cần được phối hợp sử dụng nhuần nhuyễn và bổ trợ cho nhau hiệu quả hơn nữa để phát huy sức mạnh tổng hợp của đối ngoại Việt Nam hiện đại. Cần tạo ra các cơ chế điều phối các công cụ này một cách hiệu quả, vừa ở tầm chiến lược, vừa ở cấp triển khai cụ thể. Ngành ngoại giao cần tận dụng mạnh mẽ hơn nữa các công nghệ mới, như trí tuệ nhân tạo (AI) và phân tích dữ liệu lớn (big data) để theo dõi tình hình quốc tế và đưa ra các dự báo chiến lược chính xác. Ngoài ra, cần tăng cường sử dụng các nền tảng truyền thông xã hội và công nghệ kỹ thuật số để truyền tải thông điệp chính thức và tuyên truyền chủ trương, chính sách hiệu quả đến người dân trong nước và thế giới.
Về phong cách và hình thức ngoại giao
Ngoại giao Việt Nam có thể tăng cường tổ chức các hình thức ngoại giao hiện đại mới, phù hợp với xu thế thế giới hiện nay, như ngoại giao câu lạc bộ, ngoại giao văn hoá, ngoại giao công chúng, ngoại giao cá nhân lãnh đạo, ngoại giao đặc phái viên. Cách thức ngoại giao có thể tăng cường các phong cách ngoại giao phi chính thức, gần gũi, thân thiện với người dân. Ngoại giao Việt Nam đẩy mạnh hơn nữa các hình thức ngoại giao công chúng, ngoại giao văn hóa. Trong đó, ngoại giao khoa học và ngoại giao môi trường cũng cần được triển khai mạnh mẽ hơn, đặc biệt là trong việc thúc đẩy các sáng kiến quốc tế liên quan đến công nghệ và bảo vệ môi trường. Điều này không chỉ giúp Việt Nam nâng cao vị thế mà còn thể hiện trách nhiệm của mình trong các vấn đề toàn cầu.
Về khuôn khổ pháp lý, thể chế cho hoạt động ngoại giao
Ngoại giao cần khuôn khổ pháp lý và thể chế thuận lợi để ngoại giao có thể triển khai được hoạt động theo hướng toàn diện, hiện đại. Các khuôn khổ pháp lý đó cần ghi nhận các chức năng hiện đại của ngoại giao, trao cho ngoại giao một số quyền hạn nhất định, như quyền điều phối chung các hoạt động đối ngoại của Bộ Ngoại giao, quyền hạn và trách nhiệm của các chủ thể phi nhà nước trong các hoạt động đối ngoại, cần có quy định về việc bảo đảm nguồn lực cho Bộ Ngoại giao đảm trách được chức năng, nhiệm vụ của mình; và các quy định pháp luật cập nhật đối với cán bộ ngoại giao. Khuôn khổ pháp lý dành cho các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài cần được bổ sung, hoàn thiện để cơ quan đại diện hoạt đông hiệu quả, như thực hiện chức năng “đại diện” và xử lý các vấn đề, khủng hoảng nảy sinh tại chỗ.
Về tổ chức bộ máy ngoại giao
Khi sứ mệnh của ngoại giao ngày càng gắn liền công tác ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển, có thể cân nhắc bổ sung hoặc sáp nhập một số chức năng về Bộ Ngoại giao, như chức năng về hội nhập và thương mại đa phương quốc tế như thực tiễn của nhiều bộ ngoại giao các nước trên thế giới. Bộ Ngoại giao cũng có thể cân nhắc bổ sung một số đơn vị chuyên trách cho từng lĩnh vực mới, như kinh tế số, khoa học và công nghệ, môi trường, an ninh mạng và các vấn đề toàn cầu khác. Những đơn vị này sẽ giúp Việt Nam có các chuyên gia chuyên sâu, theo dõi và tham gia vào các vấn đề phức tạp của môi trường quốc tế, từ đó đưa ra các quyết sách và sáng kiến phù hợp, kịp thời.
Về tiêu chuẩn cán bộ ngoại giao
Ngoại giao Việt Nam nên nâng cao tiêu chuẩn tuyển dụng cán bộ ngoại giao, yêu cầu cao hơn về các kiến thức nền, như năng lực tư duy logic, quan hệ quốc tế, luật quốc tế; đồng thời cũng yêu cầu cao hơn về kỹ năng ngoại ngữ, khả năng sử dụng công nghệ và kiến thức liên ngành. Đồng thời, cán bộ ngoại giao phải là các chuyên gia sâu trong một số lĩnh vực nhất định.
Cách thức đào tạo cán bộ ngoại giao
Đào tạo cán bộ ngoại giao hiện đại cần chú trọng bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành, kiến thức kinh tế, kiến thức về các địa phương. Cần tăng cường hợp tác quốc tế với các học viện ngoại giao và tổ chức quốc tế uy tín để nâng cao chất lượng đào tạo. Các phương pháp đào tạo thực tiễn, như quản lý khủng hoảng, đàm phán trực tuyến và phân tích dữ liệu cần được tích hợp vào chương trình giảng dạy để chuẩn bị cho cán bộ những kỹ năng cần thiết trong bối cảnh hiện đại. Việc áp dụng công nghệ tiên tiến và thực tập tại các tổ chức quốc tế cũng là cách hiệu quả để bảo đảm cán bộ có đủ kinh nghiệm thực tế và khả năng thích ứng với môi trường đa dạng và phức tạp của ngoại giao quốc tế hiện nay.
Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phát triển vượt bậc của dân tộc, nền “ngoại giao thời đại mới” của Việt Nam một mặt cần tiếp tục có nhiều giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, kịp thời nhằm tiếp tục phát triển toàn diện, hiện đại, hoà mình và tiếp thu các tinh hoa phát triển của nhân loại, đóng góp tích cực, chủ động cho hoà bình, hợp tác và sự phát triển chung của nhân loại; mặt khác, nền ngoại giao thời đại mới cũng cần không ngừng chuyên nghiệp hoá, trở thành lực lượng sắc bén, tinh nhuệ, phát huy vai trò của lực lượng trọng yếu, nòng cốt và tin cậy thực hiện mọi sứ mệnh và trọng tránh mà Đảng và Nhà nước giao phó./.
--------------------------------
(1) Didzis Klavin, The Transformation of Diplomacy, https://www.sylff.org/wp content/uploads/2013/03/df167deba2dda4fb19d23be1c62e2400.pdf
(2) Bùi Thanh Sơn: “Đại hội XIII của Đảng tiếp tục bổ sung, phát triển và hoàn thiện đường lối đối ngoại thời kỳ Đổi mới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 10-12-2021, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/dai-hoi-xiii-cua-dang-tiep-tuc-bo-sung-phat-trien-va-hoan-thien-duong-loi-doi-ngoai-thoi-ky-doi-moi
(3) Báo cáo chính trị Đại hội X, mục IX, điểm 14
(4) Báo cáo chính trị Đại hội XI, mục IX, điểm 4
(5) Báo cáo chính trị Đại hội XII, mục X, điểm 2
(6) Báo cáo chính trị Đại hội IX, mục VII, điểm 14
(7) Báo cáo chính trị Đại hội IX, mục VII, điểm 14
(8) Báo cáo chính trị Đại hội X, mục IX, điểm 14
(9) Báo cáo chính trị Đại hội XIII, mục XI, điểm 2
(10) Báo cáo chính trị Đại hội IX, mục VII, điểm 4
(11) Báo cáo chính trị Đại hội XII, mục X, điểm 2.3
(12) Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2023, mục V, điểm 9
(13) Báo cáo chính trị Đại hội XI, mục IX, điểm 2
(14) Báo cáo chính trị Đại hội XIII, mục XI, điểm 4
(15) Báo cáo chính trị Đại hội XIII, mục XI, điểm 2
(16) Báo cáo chính trị Đại hội XIII, mục XI, điểm 5
(17) Báo cáo chính trị Đại hội IX, mục VII, điểm 14
(18) Báo cáo chính trị Đại hội XIII, mục XI, điểm 5
(19) Nghị quyết số 52-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến năm 2030, tầm nhìn 2045
(20) Báo cáo chính trị Đại hội XII, mục XI, điểm 2.4
(21) Nội dung chỉ đạo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại buổi làm việc với Ban Cán sự đảng Bộ Ngoại giao, 29-8-2024, tại Hà Nội, https://vnexpress.net/xay-dung-ngoai-giao-thoi-dai-moi-4787288.html
(22) Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng phát biểu tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc, 2021