TCCS - Trong những năm qua, tỉnh Quảng Ninh - một trong những cực tăng trưởng năng động của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - đã sớm xác định hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo là “đòn bẩy chiến lược” để hiện thực hóa chiến lược phát triển kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn, qua đó góp phần thực hiện mục tiêu phát triển nhanh, bền vững và toàn diện.

Vai trò và đóng góp của khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trong phát triển kinh tế - xã hội Quảng Ninh

Trong nhiều năm qua, khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo đã khẳng định vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế của tỉnh Quảng Ninh. Đây là kết quả từ việc tỉnh Quảng Ninh chủ động ban hành và triển khai nhiều văn bản định hướng chiến lược quan trọng nhằm tạo hành lang pháp lý thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Cụ thể như Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 5-5-2012 và Nghị quyết số 07-NQ/TU, ngày 13-3-2017, “Về phát triển khoa học - công nghệ”; Nghị quyết số 43/2016/NQ-HĐND, ngày 7-12-2016 và Nghị quyết số 313/2020/NQ-HĐND, ngày 9-12-2020, “Về một số cơ chế tài chính khuyến khích, hỗ trợ các tổ chức, cá nhân trong hoạt động khoa học - công nghệ trên địa bàn tỉnh”;… Đặc biệt, Nghị quyết số 13-NQ/TU, ngày 28-4-2023, “Về phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030” xác định mục tiêu: Đến năm 2030, tỉnh Quảng Ninh thuộc nhóm các địa phương đi đầu cả nước về ứng dụng, chuyển giao khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo, với tiềm lực, trình độ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo đạt mức tiên tiến ở một số lĩnh vực quan trọng; trình độ, năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp và ở một số ngành, lĩnh vực đạt trình độ khu vực, quốc gia, quốc tế; khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo phát triển vững chắc, thực sự trở thành động lực tăng trưởng kinh tế, góp phần xây dựng Quảng Ninh trở thành tỉnh kiểu mẫu, giàu đẹp, văn minh, hiện đại, phát triển kinh tế nhanh, bền vững.

Trong giai đoạn 2020 - 2024, tỉnh triển khai 108 nhiệm vụ khoa học - công nghệ cấp tỉnh, tập trung vào nâng cao năng suất lao động, bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu, bảo tồn giá trị văn hóa và phát triển nguồn nhân lực. Đồng thời, tạo đột phá trong ứng dụng giải pháp mới, đồng bộ vào hoạt động của các cơ quan nhà nước, góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, nâng cao chất lượng hoạt động công vụ, tiết kiệm thời gian, chi phí trong hoạt động quản lý, giám sát và điều hành cơ quan, cải thiện chỉ số xếp hạng của tỉnh.

Tỉnh đi đầu trong việc ứng dụng công nghệ số vào quản lý đô thị, du lịch, tài nguyên và môi trường; triển khai mô hình “Chính quyền điện tử - chính quyền số - đô thị thông minh” với nền tảng dữ liệu tập trung, giúp tăng hiệu quả điều hành và giảm phát thải carbon. Tỉnh thành lập Trung tâm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo và hỗ trợ chuyển đổi số (năm 2024), Khu công nghiệp sạch công nghệ cao Việt Hưng, Khu kinh tế ven biển Quảng Yên,... Tính đến cuối năm 2024, Quảng Ninh có 28 doanh nghiệp khoa học - công nghệ, thuộc nhóm cao trong cả nước. Cùng với đó, các trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp lớn như Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), Tập đoàn Sun Group, VinGroup, Texhong, và các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đến từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc… đã thiết lập “mạng lưới ba nhà” (nhà nước - nhà khoa học - nhà doanh nghiệp) ngày càng chặt chẽ.

Nhiều năm liền, tỉnh Quảng Ninh là địa phương có cơ cấu kinh tế hiện đại hóa nhanh, trong đó dịch vụ - công nghiệp chiếm hơn 90% Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP). Năm 2020, tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghệ cao và ứng dụng công nghệ cao đạt 45,24% tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào GRDP tăng từ 43,48% năm 2021 lên 50,01% năm 2023 và tiếp tục duy trì trên 50% trong năm 2024. Chỉ số đổi mới sáng tạo cấp địa phương (PII) của tỉnh Quảng Ninh liên tục nằm trong nhóm 10 tỉnh, thành phố có điểm số cao nhất. Năm 2024, đạt 47,82 điểm, đứng thứ 6 toàn quốc, tăng ba bậc so với năm 2023(1).

Không chỉ vậy, tỉnh giữ vững đà tăng trưởng kinh tế hai con số trong 7 năm liên tiếp (2016 - 2022). GRDP bình quân giai đoạn 2021 - 2030 là 10%/năm, GRDP bình quân đầu người đạt 19.000 - 20.000 USD(2)Trong 9 tháng năm 2025, con số này ước tăng 11,66%, tăng cao nhất qua 10 năm trở lại đây. Cùng với đó, hệ thống hạ tầng giao thông, logistics, đô thị, giáo dục, khoa học - công nghệ được đầu tư đồng bộ, tạo nền tảng cho hợp tác quốc tế và thu hút đầu tư vào các ngành công nghệ cao, đổi mới sáng tạo. Tỉnh là địa phương duy nhất trong cả nước giữ vị trí đứng đầu cả 4 chỉ số quan trọng (Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh - PCI; Chỉ số cải cách hành chính - ParIndex; Chỉ số sự hài lòng của người dân, tổ chức đối với cơ quan hành chính nhà nước - SIPAS; Chỉ số hiệu quả quản trị và hành chính công cấp tỉnh - PAPI), đứng đầu các Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) và cải cách hành chính (ParIndex), đồng thời luôn thuộc nhóm địa phương có chất lượng điều hành kinh tế xuất sắc nhất toàn quốc.

Hợp tác quốc tế - động lực then chốt trong giai đoạn phát triển mới

Thế giới đang chuyển dịch sang mô hình tăng trưởng dựa trên tri thức và công nghệ. Các hình thức hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo ngày càng đa dạng: từ nghiên cứu - phát triển (R&D), chuyển giao công nghệ, hợp tác đào tạo nhân lực đến xây dựng hệ sinh thái sáng tạo. Nhiều mô hình thành công như “thành phố thông minh”, “cảng xanh”, “khu công nghiệp tuần hoàn” ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore,... là những kinh nghiệm hữu ích cho tỉnh Quảng Ninh trong quá trình định hình hướng đi phát triển xanh, số và tuần hoàn.

Tỉnh Quảng Ninh được Trung ương giao nhiều cơ chế, chính sách đặc thù theo Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 23-11-2022, của Bộ Chính trị, “Về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh Vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, với định hướng phát triển bền vững, đô thị hóa xanh, tái cơ cấu kinh tế theo hướng tri thức và đổi mới sáng tạo. Trên cơ sở đó, tỉnh đặt mục tiêu trở thành trung tâm đổi mới sáng tạo, năng lượng sạch và công nghệ cao của phía Bắc, mở rộng hợp tác quốc tế với các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và châu Âu,… trong các lĩnh vực công nghệ cao, năng lượng sạch, đô thị thông minh và du lịch sinh thái. Đồng thời, trong Chiến lược phát triển đến năm 2030, tầm nhìn 2045, tỉnh Quảng Ninh phấn đấu trở thành tỉnh dịch vụ - công nghiệp hiện đại, trung tâm phát triển năng lượng sạch, công nghệ cao và đổi mới sáng tạo, là “mô hình mẫu” về chuyển đổi số, chuyển đổi xanh của Việt Nam.

Từ năm 2015 đến năm 2025, Quảng Ninh đã triển khai nhiều chương trình hợp tác với các tổ chức quốc tế, như Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA), Cơ quan Hợp tác quốc tế Hàn Quốc (KOICA), Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Cơ quan Hợp tác quốc tế Đức (GIZ), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Ngân hàng Thế giới (WB), tập trung vào các lĩnh vực công nghệ môi trường, năng lượng tái tạo, hiệu quả năng lượng, khởi nghiệp sáng tạo và chuyển đổi số.

Một trong những trọng tâm cũng được tỉnh triển khai nhằm hướng tới tăng trưởng xanh trong mục tiêu đến năm 2030, các khu công nghiệp, khu kinh tế trên địa bàn tỉnh đạt tiêu chí “khu công nghiệp xanh, khu kinh tế xanh”, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, tái sử dụng nước thải sau xử lý, thu hồi và tái chế chất thải rắn, hướng đến phát triển bền vững và thích ứng với biến đổi khí hậu. Theo đó, các dự án tiêu biểu được tỉnh Quảng Ninh triển khai trong hợp tác với các đối tác nước ngoài có thể kể đến như: Dự án thúc đẩy tăng trưởng xanh khu vực Vịnh Hạ Long do JICA tài trợ được thực hiện chủ yếu tại khu vực Vịnh Hạ Long và các địa phương lân cận. Dự án phát huy hiệu quả trong việc xây dựng tiêu chí cánh buồm xanh cho tàu thủy du lịch trên vịnh Hạ Long; xây dựng các giải pháp tiết kiệm năng lượng; xuất bản Sách trắng về tăng trưởng xanh khu vực vịnh Hạ Long... Dự án Tăng trưởng xanh bền vững do KOICA tài trợ, giúp tỉnh Quảng Ninh xây dựng bộ chỉ số đánh giá phát triển xanh theo chuẩn quốc tế.

Cùng với đó, tỉnh thiết lập quan hệ hợp tác với Đại học Quốc gia Seoul, Đại học Công nghệ Nanyang (Singapore), Viện Năng lượng mới Nhật Bản (NEDO) và Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc (UNESCO), nhằm thúc đẩy nghiên cứu chung, đào tạo nhân lực chất lượng cao, ứng dụng công nghệ giám sát và số hóa dữ liệu di sản Vịnh Hạ Long, hướng tới phát triển du lịch thông minh, du lịch xanh.

Đạt được những thành tựu trên là nhờ tỉnh Quảng Ninh thực hiện hiệu quả hợp tác quốc tế thông qua: Thứ nhất, xác định thể chế tiên phong, quản trị linh hoạt là nền tảng để hợp tác hiệu quả; thứ hai, chủ động gắn hợp tác với mục tiêu phát triển bền vững và chuyển đổi số, tránh hợp tác hình thức; thứ ba, đa dạng hóa đối tác và lĩnh vực hợp tác để lan tỏa tri thức toàn cầu; thứ tư, phát triển nguồn nhân lực và đổi mới tư duy quản lý công nghệ - yếu tố quyết định thành công.

Định hướng chiến lược hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo

Trong giai đoạn phát triển mới, hợp tác quốc tế trong khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số được khẳng định là chìa khóa vàng giúp tỉnh Quảng Ninh bứt phá, hiện thực hóa tầm nhìn trở thành trung tâm kinh tế xanh - kinh tế số - kinh tế tuần hoàn của miền Bắc và cả nước. Bằng việc chủ động hội nhập quốc tế, tận dụng tri thức toàn cầu và phát huy nội lực địa phương, tỉnh Quảng Ninh là một trong những địa phương đi đầu về phát triển bền vững cấp tỉnh, đóng góp thiết thực vào chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn.

Trước bối cảnh toàn cầu hóa, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và xu thế phát triển bền vững lan tỏa mạnh mẽ, hợp tác quốc tế trong khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo không chỉ là yêu cầu tất yếu, mà còn tiếp tục là đòn bẩy chiến lược nhằm tạo ra “bước nhảy” về năng suất, chất lượng, cơ cấu kinh tế và năng lực quản trị phát triển của tỉnh. Với vị thế là cực tăng trưởng quan trọng của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cửa ngõ giao thương quốc tế phía Đông Bắc, tỉnh Quảng Ninh định hướng phát triển theo mô hình “tăng trưởng xanh, bền vững, bao trùm và đổi mới sáng tạo”, lấy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực trọng tâm.

Theo đó, tỉnh Quảng Ninh xác định mục tiêu tổng quát là tăng cường hợp tác quốc tế toàn diện, thực chất và hiệu quả trong khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, hướng tới trở thành trung tâm khoa học - công nghệ xanh của vùng Bắc Bộ và hạt nhân trong mạng lưới đổi mới sáng tạo quốc gia. Tỉnh tập trung triển khai 5 nhóm định hướng:

Một là, hợp tác quốc tế trong nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng công nghệ xanh.

Mở rộng hợp tác với các quốc gia dẫn đầu như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức, Phần Lan về công nghệ năng lượng sạch (hydro, điện gió, điện mặt trời nổi), công nghệ xử lý chất thải và nước thải tuần hoàn, vật liệu xanh, giao thông carbon thấp. Xây dựng Trung tâm chuyển giao công nghệ xanh Quảng Ninh gắn với khu công nghiệp sinh thái - tuần hoàn. Khuyến khích doanh nghiệp FDI chuyển giao công nghệ, kết nối với doanh nghiệp địa phương thông qua các chương trình “matching innovation” và “open lab”.

Hai là, hợp tác quốc tế trong chuyển đổi số và phát triển kinh tế số.

Triển khai hợp tác với các tập đoàn công nghệ hàng đầu thế giới như Microsoft, Samsung, Huawei,… trong phát triển hạ tầng số, nền tảng dữ liệu mở, trí tuệ nhân tạo (AI) phục vụ quản lý đô thị, logistics, du lịch và môi trường. Tăng cường hợp tác công - tư (PPP) trong chính quyền số, đô thị thông minh, nông nghiệp số và du lịch thông minh. Xây dựng mô hình thành phố số Hạ Long và Khu công nghiệp số Quảng Yên gắn với khung tiêu chuẩn của OECD và Liên minh châu Âu (EU Digital Compass).

Ba là, hợp tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo.

Liên kết các trường đại học, viện nghiên cứu trong và ngoài nước để đào tạo nhân lực STEM, AI, khoa học dữ liệu, quản trị đổi mới sáng tạo. Hình thành “Mạng lưới chuyên gia Quảng Ninh toàn cầu” kết nối kiều bào, chuyên gia Việt Nam ở nước ngoài. Tổ chức diễn đàn khoa học - đổi mới sáng tạo quốc tế ở tỉnh Quảng Ninh thường niên, tạo không gian trao đổi tri thức và kết nối hợp tác.

Bốn là, hợp tác phát triển hệ sinh thái đổi mới sáng tạo và khởi nghiệp quốc tế.

Liên kết với các trung tâm khởi nghiệp quốc tế như Seoul Startup Hub, Tsukuba Science City, One North Singapore, để hình thành  Quang Ninh Innovation Hub (QNIC) mang tầm khu vực. Thu hút quỹ đổi mới sáng tạo quốc tế đầu tư vào doanh nghiệp công nghệ địa phương. Hỗ trợ startup tham gia mạng lưới ASEAN Innovation Network, tận dụng chương trình của ADB, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới  (WIPO), Tổ chức Phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO).

Năm là, hợp tác xây dựng thể chế, chính sách và tiêu chuẩn phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn.

Trao đổi, học tập kinh nghiệm từ EU, Nhật Bản,… về chính sách carbon, chứng chỉ xanh, kinh tế tuần hoàn, áp dụng cho các ngành than, du lịch, logistics. Xây dựng “Bộ tiêu chuẩn xanh Quảng Ninh” phù hợp tiêu chuẩn quốc tế để thu hút đầu tư bền vững. Tăng cường tham gia diễn đàn quốc tế của Viện tăng trưởng xanh toàn cầu (GGGI), các chương trình hành động kinh tế tuần hoàn như Kế hoạch Hành động Kinh tế tuần hoàn (CEAP) của Liên minh châu Âu, Chiến lược kinh tế tuần hoàn của ASEAN để quảng bá sáng kiến của tỉnh. 

Trên cơ sở đó, các giải pháp trọng tâm để hiện thực hóa định hướng hợp tác quốc tế:

Thứ nhất, hoàn thiện thể chế, chính sách thu hút hợp tác và đầu tư công nghệ cao. Kiến nghị Chính phủ ban hành Nghị quyết đặc thù về hợp tác quốc tế trong khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo tại tỉnh Quảng Ninh. Thành lập Quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ quốc tế do ngân sách tỉnh và các tổ chức quốc tế tài trợ. Tạo điều kiện đơn giản hóa thủ tục cho chuyên gia, nhà khoa học, startup quốc tế làm việc tại tỉnh Quảng Ninh.

Thứ hai, phát triển hạ tầng số, dữ liệu và công nghệ mở phục vụ hợp tác toàn cầu. Xây dựng hạ tầng dữ liệu mở của tỉnh gắn với Chính phủ số quốc gia. Tạo cơ chế chia sẻ dữ liệu giữa các đối tác quốc tế, doanh nghiệp và chính quyền. Đầu tư trung tâm dữ liệu xanh, trung tâm an ninh mạng cấp vùng phục vụ kết nối quốc tế.

Thứ ba, đổi mới mô hình quản trị hợp tác quốc tế. Thành lập Ban điều phối hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo trực thuộc Ủy ban Nhân dân tỉnh, đóng vai trò đầu mối kết nối các dự án. Áp dụng mô hình “một cửa - hai chiều” trong quản lý dự án, tạo điều kiện thuận lợi cho đối tác. Tăng cường giám sát, đánh giá hiệu quả dự án hợp tác theo chuẩn quốc tế.

Thứ tư, đẩy mạnh ngoại giao khoa học và truyền thông chiến lược. Phát huy vai trò của ngoại giao địa phương và ngoại giao khoa học, thúc đẩy quảng bá thương hiệu “Quảng Ninh - điểm đến của công nghệ xanh và sáng tạo số”. Tổ chức diễn đàn quốc tế, tuần lễ công nghệ xanh, hội chợ chuyển giao công nghệ (Techmart), qua đó mở rộng mạng lưới hợp tác quốc tế.

Thứ năm, thúc đẩy liên kết vùng và hợp tác tiểu vùng, xuyên biên giới. Mở rộng hợp tác khoa học - công nghệ với tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) trong năng lượng tái tạo, logistics thông minh, công nghệ môi trường. Phát triển hành lang hợp tác đổi mới sáng tạo Quảng Ninh - Hải Phòng - Hải Dương - Bắc Ninh - Hà Nội, hình thành “vành đai công nghệ cao Bắc Bộ”. Tham gia các mạng lưới thành phố sáng tạo ASEAN - UNESCO để lan tỏa giá trị tri thức, văn hóa và sáng tạo.

Với tầm nhìn chiến lược, nền tảng thể chế năng động và định hướng phát triển xanh, bền vững, tỉnh Quảng Ninh đang từng bước trở thành một trung tâm hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Việc đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực này không chỉ mở rộng khả năng tiếp cận tri thức và công nghệ toàn cầu, mà còn góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, hướng tới tỉnh Quảng Ninh giàu đẹp, văn minh, hiện đại, kiểu mẫu trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng./.

------------------------

(1) “Khoa học công nghệ và Đổi mới sáng tạo: Động lực để Quảng Ninh cất cánh, vươn mình”, Cổng thông tin điện tử Sở Khoa học công nghệ tỉnh Quảng Ninh,  ngày 14-1-2025, https://www.quangninh.gov.vn/So/ sokhoahoccongnghe/Trang/ChiTietTinTuc.aspx?nid=8931
(2) Đỗ Phương: “Quy hoạch chiến lược - Kiến tạo động lực phát triển”, Cổng thông tin điện tử Quảng Ninh, ngày 9-6-2023, https://www.quangninh.gov.vn/chuyen-de/tangtruong/Trang/ChiTietTinTuc. aspx?nid=123066