TCCSĐT - Nghị quyết số 13-NQ/TW, ngày 16-01-2012, Hội nghị Trung ương 4 khóa XI về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 đề ra mục tiêu từng bước hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội tương đối đồng bộ với một số công trình hiện đại, bảo đảm cho phát triển nhanh và bền vững, tăng cường hội nhập quốc tế, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, xây dựng nông thôn mới, thu hẹp khoảng cách vùng, miền và nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh và giữ vững độc lập, chủ quyền quốc gia.

Nghị quyết yêu cầu tập trung nguồn lực cho 4 lĩnh vực trọng tâm với các mục tiêu cho từng lĩnh cực. Về hạ tầng giao thông: bảo đảm kết nối các trung tâm kinh tế lớn với nhau và với các đầu mối giao thông cửa ngõ bằng hệ thống giao thông đồng bộ, năng lực vận tải được nâng cao, giao thông được thông suốt, an toàn. Hạ tầng cung cấp điện: bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đi đôi với tiết kiệm, giảm tiêu hao điện năng. Hạ tầng thuỷ lợi và ứng phó với biến đổi khí hậu: bảo đảm tưới, tiêu chủ động cho diện tích lúa 2 vụ, các vùng cây công nghiệp và nguyên liệu, nuôi trồng thuỷ sản tập trung. Chủ động phòng, tránh bão, lũ, ứng phó với biến đổi khí hậu và nước biển dâng. Đối với hạ tầng các đô thị lớn, từng bước phát triển đồng bộ và hiện đại, giải quyết cơ bản tình trạng ách tắc giao thông, úng ngập; cung cấp ổn định điện, nước và xử lý chất thải đạt tiêu chuẩn môi trường.

Hệ thống kết cấu hạ tầng đã được xây dựng, cơ bản đáp ứng yêu cầu phát triển

Đặc điểm của xây dựng kết cấu hạ tầng là đòi hỏi nguồn vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài, vì vậy, khó khăn lớn nhất trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW là huy động vốn. Thời gian qua, bên cạnh vốn ngân sách nhà nước, đã thu hút được nguồn vốn khá lớn từ các thành phần kinh tế, vốn từ xã hội để đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng thông qua việc xây dựng cơ chế, chính sách minh bạch, thông thoáng. Trong 5 năm, vốn ngân sách nhà nước huy động từ trái phiếu Chính phủ được 1.092.006 tỷ đồng cho đầu tư phát triển, chủ yếu cho thực hiện đột phá chiến lược về phát triển kết cấu hạ tầng. Vốn ODA và vay ưu đãi được tập trung cho phát triển kết cấu hạ tầng chiếm tỷ trọng lớn trong thu hút ODA, đạt 26,5 tỷ USD. Nguồn vốn từ các khu vực ngoài nhà nước được huy động, thu hút vào phát triển kết cấu hạ tầng khá lớn và chủ yếu là vốn của doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp nước ngoài. Trong đó, thu hút lớn nhất là vào các lĩnh vực hạ tầng giao thông đạt 327.110 tỷ đồng; hạ tầng ngành điện đạt 233.400 tỷ đồng...(1)

Nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện thể chế phát triển kết cấu hạ tầng đã được triển khai tích cực. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng và hoàn thiện, nhiều cơ chế, chính sách cụ thể được rà soát, điều chỉnh. Nhiều đề án quy hoạch và xây dựng cơ chế, chính sách được điều chỉnh với mục tiêu nâng cao tính khả thi, đồng bộ và hiện đại.

Khung pháp lý thống nhất, đồng bộ đã và đang được hình thành và hoàn thiện, phù hợp với thông lệ quốc tế. Đã xây dựng, sửa đổi và ban hành Luật Đầu tư công, Luật Đầu tư, Luật Đất đai… và các văn bản dưới luật, tạo môi trường thuận lợi để đẩy mạnh thu hút nguồn vốn từ khu vực tư nhân đầu tư phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng. Nhiều hình thức đầu tư từ xã hội được thực hiện, càng tăng thêm nguồn lực cho phát triển kết cấu hạ tầng.

Nhiều công trình kết cấu hạ tầng được đầu tư hiện đại và bảo đảm kết nối đồng bộ, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội của các vùng lãnh thổ cũng như trên phạm vi cả nước. Một số công trình giao thông quan trọng, quy mô lớn được đầu tư, nâng cấp, đảm bảo kết nối giữa các vùng miền trong cả nước và giao thương quốc tế; các tuyến đường cao tốc, cảng hàng không, cảng biển... được tập trung xây dựng, đẩy nhanh tiến độ thi công; hạ tầng giao thông ở các vùng kinh tế trọng điểm được ưu tiên bố trí vốn đầu tư để sớm hoàn thành, đưa vào sử dụng.

Hạ tầng năng lượng đã được đầu tư tăng thêm năng lực, cơ bản đáp ứng được yêu cầu phát triển và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Hạ tầng thủy lợi được tập trung đầu tư xây dựng và nâng cấp theo hướng đa mục tiêu, nhiều dự án trọng điểm, quy mô lớn được hoàn thành, góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn.

Bên cạnh đó, hạ tầng đô thị được quan tâm đầu tư, nhất là ở các thành phố lớn. Hạ tầng các khu công nghiệp, khu kinh tế được các địa phương tập trung đầu tư hoàn thiện hệ thống hạ tầng kỹ thuật, giải quyết tình trạng thiếu nhà ở và các hạ tầng xã hội thiết yếu cho lao động trong các khu công nghiệp. Hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển mạnh, đảm bảo hiện đại, rộng khắp, kết nối với quốc tế.

Hạ tầng giáo dục, đào tạo và khoa học công nghệ, y tế, văn hóa, thể thao, du lịch... được quan tâm đầu tư. Nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ sở vật chất ngành giáo dục được thực hiện.... Các công trình hạ tầng y tế đang thi công được đẩy nhanh tiến độ và hoàn thành, sớm đưa vào hoạt động. Các thiết chế văn hóa, thể thao từ Trung ương đến địa phương được quan tâm đầu tư và tăng cường…

Kết cấu hạ tầng để xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh, đã thực sự phát huy tác dụng, bộ mặt nông thôn được đổi mới, đời sống nhân dân được nâng lên, góp phần hoàn thành một bước rất cơ bản tiêu chí về kết cấu hạ tầng trong xây dựng nông thôn mới.

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của đất nước đã được đầu tư xây dựng từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội; đảm bảo kết nối, đồng bộ giữa các lĩnh vực kết cấu hạ tầng, giữa các vùng miền, kết nối các trung tâm kinh tế, các khu công nghiệp, khu kinh tế với các cụm cảng… và kết nối với hạ tầng các nước trong khu vực.

Hạn chế, khó khăn, vướng mắc và giải pháp

Tuy kết cấu hạ tầng có bước phát triển, đất nước có nhiều công trình hạ tầng lớn trong thời gian qua, tuy nhiên, vẫn còn các hạn chế như quy hoạch chưa đồng bộ, tiến độ một số công trình còn chậm. Hạ tầng vẫn còn là điểm nghẽn đối với sự phát triển như ùn tắc giao thông, quá tải bệnh viện…

Tốc độ phát triển đường cao tốc và đầu tư nâng cấp một số tuyến quốc lộ quan trọng còn chậm. Mục tiêu đề ra đến năm 2020 phải đạt trên 2.000km đường cao tốc, tuy nhiên, hiện nay mới chỉ đạt khoảng 50%. Hạ tầng đường sắt chậm thay đổi. Quy hoạch phát triển các lĩnh vực kết cấu hạ tầng đô thị chưa đáp ứng yêu cầu. Các công trình đường sắt đô thị không bảo đảm tiến độ và thường xuyên bị đội vốn. Tình trạng ách tắc trong giao thông đô thị chưa có dấu hiệu suy giảm. Nhiều công trình đầu tư giao thông theo hình thức BOT vấp phải sự phản đối của người dân do thu phí quá cao, đặt trạm thu phí ở vị trí bất hợp lý,… Việc kết nối giữa các phương thức vận tải chưa tốt nên chưa khai thác hiệu quả kết cấu hạ tầng giao thông. Hạ tầng điện lực cũng chưa đáp ứng được yêu cầu, do thiếu vốn để đầu tư, đặc biệt đối với các công trình lưới điện. Nhiều hệ thống công trình hạ tầng thủy lợi thiếu đồng bộ. Hạ tầng công nghệ thông tin chưa được đầu tư hoàn chỉnh và đồng bộ ở các địa phương. Hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu quy mô quốc gia tạo nền tảng phát triển Chính phủ điện tử còn thiếu, triển khai chậm. Bên cạnh đó, cơ chế, chính sách thu hút nguồn lực ngoài nhà nước tham gia đầu tư kết cấu hạ tầng chưa thực sự phát huy tác dụng, hiệu quả…

Những hạn chế, vướng mắc trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng do nhiều nguyên nhân, có cả nguyên nhân chủ quan và khách quan: Một số văn bản quy phạm pháp luật còn thiếu tính đồng bộ, được sửa đổi, bổ sung, ban hành chậm, gây khó khăn trong quá trình thực hiện. Thực tiễn xuất hiện nhiều hình thức, mô hình mới về đầu tư, khai thác kinh doanh các công trình hạ tầng, song các quy định pháp lý chưa theo kịp để điều chỉnh, nhất là trong lĩnh vực giao thông; chưa có hướng dẫn cụ thể đối với các mô hình đầu tư theo hình thức PPP trong một số lĩnh vực đặc thù như lĩnh vực y tế, giáo dục…

Do xuất phát điểm của nền kinh tế thấp nên vốn cho đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng đủ nhu cầu. Một trong những nguồn vốn chủ lực đầu tư cho kết cấu hạ tầng là vốn ODA. Tuy nhiên, nguồn vốn này ngày càng giảm sau khi Việt Nam trở thành nước có thu nhập trung bình. Các hình thức huy động vốn khác bị hạn chế do ảnh hưởng bởi quy mô nợ công. Thị trường tín dụng trong nước cho vay đối với các dự án BOT đã ở mức cao, đòi hỏi phải có sự quản lý chặt chẽ. Các chính sách về phí sử dụng dịch vụ hạ tầng đổi mới còn chậm, chưa có cơ chế bảo lãnh rủi ro (rủi ro doanh thu, rủi ro tỷ giá...) theo thông lệ quốc tế nên chưa thu hút được nhiều nhà đầu tư và tổ chức tín dụng nước ngoài tham gia. Một số cơ chế, chính sách khuyến khích, xã hội hóa đầu tư xây dựng, đặc biệt đối với hạ tầng thương mại, hạ tầng văn hóa, thể dục thể thao và du lịch còn chưa cụ thể... Công tác xã hội hóa đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng khó thực hiện ở vùng nông thôn, đặc biệt ở các vùng khó khăn.

Một trong những vấn đề nan giải trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông ở nước ta, đó là công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng. Bồi thường, giải phóng mặt bằng chậm làm kéo dài tiến độ thi công, phát sinh thêm chi phí đầu tư, chậm đưa vào khai thác sử dụng công trình làm giảm hiệu quả đầu tư. Bên cạnh đó, việc thiếu quy hoạch kết cấu hạ tầng mang tính liên vùng, liên tỉnh, quy hoạch chưa đúng với nhu cầu, chuẩn bị đầu tư chưa tốt, thiếu vốn để tập trung đầu tư cũng như việc quản lý quy hoạch kết cấu hạ tầng tại một số địa phương, khu vực chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ, gây lãng phí trong đầu tư.

Để thực hiện tốt các mục tiêu Nghị quyết số 13-NQ/TW đề ra, trong thời gian tới cần tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, đẩy nhanh tốc độ xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.

Về quy hoạch, rà soát, bổ sung, điều chỉnh quy hoạch xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, bảo đảm hiệu quả tổng hợp và tính hệ thống, nhất là mạng lưới giao thông, điện, nước, thủy lợi, giáo dục, y tế, hạ tầng viễn thông và công nghệ thông tin, thu gom và xử lý chất thải rắn, quy hoạch bảo vệ môi trường; rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch hạ tầng kỹ thuật đô thị;… Quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng thiết yếu vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng căn cứ cách mạng.

Về thể chế, tiếp tục rà soát, tháo gỡ các rào cản trong các quy định của pháp luật để đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng; xây dựng danh mục các dự án ưu tiên đầu tư, các cơ chế, chính sách chung và chính sách riêng đối với các dự án cụ thể (như các tuyến đường sắt đô thị, các công trình hạ tầng ứng phó biến đổi khí hậu, các công trình hạ tầng điện, viễn thông, thương mại…). Tiếp tục nghiên cứu, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề mới trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, đặc biệt, xây dựng dự thảo văn bản pháp luật về đối tác công tư (PPP) theo hướng đề xuất những tiêu chí lựa chọn dự án PPP, nhà đầu tư PPP, sự phù hợp về tỷ lệ góp vốn công - tư phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước, doanh nghiệp, đa dạng về loại hình trong các ngành, lĩnh vực phù hợp; công khai, minh bạch, ổn định, bình đẳng; có cơ chế giám sát, quản lý và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư đối với từng dự án.

Hoàn thiện khung pháp lý và các công cụ quản lý để kiểm soát quá trình đầu tư phát triển đô thị theo quy hoạch và kế hoạch; ưu tiên phát triển khu đô thị mới ven các đô thị để giảm tải cho khu vực trung tâm thành phố. Xây dựng và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quản lý phát triển đô thị, về kiến trúc, về cấp nước. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án, dự án cấp quốc gia về phát triển đô thị, từng bước nâng cao chất lượng và hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị.

Về huy động vốn đầu tư, cần đa dạng hóa nguồn lực cho đầu tư, mở rộng không gian phát triển (ví dụ nguồn vốn ODA; trái phiếu Chính phủ; trái phiếu quốc tế; trái phiếu công trình; nguồn lực từ đất đai; thu giá, phí; vấn đề bảo lãnh doanh thu, bảo lãnh tỷ giá…), bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, nhà đầu tư và người dân. Cần cơ chế, chính sách đặc thù để huy động nguồn lực; rà soát lại các quy hoạch gắn với tái cấu trúc nền kinh tế.

Về hình thức đầu tư PPP, Quảng Ninh là tỉnh đã triển khai mạnh mẽ và thu được những kết quả bước đầu. Từ một đồng vốn ngân sách với tư cách là “vốn mồi”, tỉnh đã huy động được 8,2 đồng vốn từ các thành phần kinh tế đầu tư cho kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng giao thông. Tỉnh đã triển khai nhiều dự án với tổng vốn đăng ký đầu tư đạt gần 100.000 tỷ đồng. Trong đó, đối với hạ tầng giao thông được đầu tư khá đồng bộ, các dự án lớn đã và đang được triển khai tích cực như: Đường cao tốc Hạ Long - Hải Phòng có tổng mức hơn 13.000 tỷ đồng; Đường cao tốc Hạ Long - Vân Đồn và cải tạo nâng cấp Quốc lộ 18 (đoạn Hạ Long - Mông Dương) gần 14.000 tỷ đồng; Cảng tàu du lịch Quốc tế Tuần Châu 10.000 tỷ đồng; Cảng hàng không Quảng Ninh 6.759 tỷ đồng… Những công trình này sẽ cơ bản đáp ứng được yêu cầu kết nối, lưu thông hàng hóa Vùng đồng bằng Bắc Bộ với cửa khẩu, thúc đẩy đầu tư thành chuỗi liên kết bền vững, rút ngắn thời gian và lộ trình đến Quảng Ninh từ khắp nơi trên thế giới. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của tỉnh đã có sự phát triển mạnh mẽ./.

----------------------------------------------------------------

(1) Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 13-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 4 khóa XI