Đại sứ Việt Nam tại các nước và các tổ chức quốc tế: Tích cực, chủ động nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại
Việt Nam chủ động, tích cực tham gia các diễn đàn Liên hợp quốc
Đại sứ Việt Nam tại Liên hợp quốc Đặng Đình Quý đã có bài viết nêu rõ sau nhiều thập niên tiến hành đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã dành được những thành tựu có ý nghĩa to lớn lịch sử. Nhờ đó mà uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam không ngừng nâng cao. Bạn bè quốc tế đánh giá cao vai trò và đóng góp tích cực của Việt Nam tại Liên hợp quốc. Việt Nam đã được bầu với số phiếu cao vào nhiều cơ quan của Liên hợp quốc, đặc biệt là Hội đồng Bảo an (nhiệm kỳ 2008 - 2009), Hội đồng Kinh tế - Xã hội (1998 - 2000 và 2016 - 2018), Hội đồng Nhân quyền (2014 - 2016), Hội đồng Chấp hành UNESCO (2015 - 2019), Ủy ban Luật pháp quốc tế (2017 - 2021). Tuy nhiên, môi trường quốc tế biến động phức tạp cũng đặt ra những thách thức về đối ngoại không nhỏ. Những thách thức chung của nhân loại ngày càng gay gắt, đòi hỏi các nước trong đó có Việt Nam tích cực tham gia giải quyết.
Theo Đại sứ Đặng Đình Quý, Việt Nam đã và đang tiếp tục tham gia, đóng góp vào các trụ cột hợp tác cơ bản của Liên hợp quốc, góp phần hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đối ngoại một cách thiết thực, hiệu quả. Việt Nam ngày càng chủ động và tích cực tham gia vào nhiều lĩnh vực hoạt động của Liên hợp quốc, góp phần thúc đẩy hòa bình quốc tế, độc lập, chủ quyền, quyền dân tộc tự quyết, tiến bộ xã hội, bảo đảm quyền con người... Việt Nam cũng tích cực đóng góp vào quá trình xây dựng và thực thi các điều ước quốc tế của Liên hợp quốc và xây dựng một thể chế đa phương toàn cầu công bằng, minh bạch và hiệu quả, đáp ứng nguyện vọng chung của toàn nhân loại.
Việt Nam luôn nhất quán trong việc đề cao các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc trong việc giải quyết các xung đột, tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia, không sử dụng hoặc đe doạ sử dụng vũ lực. Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực trong lĩnh vực giải trừ quân bị và chống phổ biến vũ khí, nhất là giải trừ vũ khí hạt nhân và các loại vũ khí huỷ diệt hàng loạt khác.
Trên cương vị Uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009, Việt Nam đã tham gia tích cực vào các nỗ lực ngăn ngừa khủng hoảng, gìn giữ hoà bình, có những đề xuất quan trọng về bảo vệ phụ nữ và trẻ em trong xung đột, thúc đẩy quyền con người và xây dựng hoà bình hậu xung đột, cải tiến phương pháp làm việc của Hội đồng Bảo an... Sau khi hết nhiệm kỳ, Việt Nam tiếp tục thực hiện nghiêm túc trách nhiệm và nghĩa vụ theo các nghị quyết của Hội đồng Bảo an. Việt Nam đã tham gia phát biểu tại nhiều buổi thảo luận mở của Hội đồng Bảo an,với tư cách quốc gia thành viên Liên hợp quốc, tại nhiều đề mục như: các tổ chức khu vực và những thách thức hiện nay đối với an ninh toàn cầu, tôn trọng các nguyên tắc và tôn chỉ của Hiến chương Liên hợp quốc, tình hình Trung Đông và vấn đề Israel-Palestine, phụ nữ, trẻ em và xung đột vũ trang, v.v. Với tư cách điều phối viên của ASEAN tại Hội đồng Bảo an, Việt Nam đã thay mặt các nước ASEAN phát biểu tại nhiều phiên thảo luận mở của Hội đồng Bảo an về các vấn đề ASEAN quan tâm. Việt Nam cũng tham gia tích cực vào tiến trình thương lượng liên chính phủ của Đại hội đồng Liên hợp quốc về vấn đề cải tổ Hội đồng Bảo an.
Ngay trước khi kết thúc nhiệm kỳ 2008-2009, Việt Nam đã tiếp tục ứng cử vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kỳ 2020-2021. Ngày 25-5 vừa qua, tại cuộc họp của Nhóm châu Á - Thái Bình Dương tại Liên hợp quốc, các nước đã nhất trí thông qua đề cử Việt Nam là ứng cử viên duy nhất của Nhóm vào vị trí Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an (nhiệm kỳ 2020-2021) tại cuộc bầu cử sẽ được tổ chức vào tháng 6-2019. Động thái này thể hiện sự ủng hộ và tín nhiệm cao của các nước trong khu vực đối với vai trò và năng lực của Việt Nam. Đây là kết quả bước đầu quan trọng, tạo thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình vận động các nước thành viên Liên hợp quốc ở các khu vực khác trong thời gian tới.
Thực hiện chủ trương của Đại hội XII về “chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn như hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các hoạt động khác”, Việt Nam đã đẩy mạnh việc cử lực lượng tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Cục Gìn giữ Hòa bình Việt Nam được thành lập trên cơ sở Trung tâm Gìn giữ hòa bình Việt Nam (thành lập từ năm 2013) nhằm phục vụ việc ta tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình ở góc độ sâu và quy mô hơn, đồng thời phù hợp với thông lệ của các quốc gia có lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình.
Trong lĩnh vực hợp tác phát triển tại Liên hợp quốc, Việt Nam cũng tích cực thúc đẩy hợp tác Nam - Nam thông qua việc chủ động xây dựng mô hình và tham gia vào các dự án hợp tác ba bên, cùng Liên hợp quốc thực hiện thí điểm thành công Sáng kiến Thống nhất hành động (DaO), xây dựng Ngôi nhà Xanh chung Liên hợp quốc tại Hà Nội, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động, tăng cường gắn kết hệ thống của các tổ chức Liên hợp quốc tại Việt Nam.Việt Nam đang nỗ lực triển khai Chương trình nghị sự 2030 vì sự phát triển bền vững, Hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu, Sáng kiến của Liên hợp quốc về ứng phó với El Nino và La Nina…
Trong năm 2016-2018, với tư cách thành viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội (ECOSOC), Việt Nam đã hoạt động tích cực trong mảng kinh tế - phát triển tại Liên hợp quốc, nắm bắt xu thế, các chuyển động lớn của thế giới trong lĩnh vực phát triển để chủ động tham mưu xây dựng và triển khai các chính sách phát triển của ta, nêu các nhu cầu, quan tâm của Việt Nam cần sự hỗ trợ của Liên hợp quốc, góp phần huy động nguồn lực cho phát triển thông qua hoạt động của các Quỹ, Chương trình tại Việt Nam.
Ngày 05-7 vừa qua, Việt Nam và Liên hợp quốc đã ký Kế hoạch Chiến lược chung mới (OSP) cho giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2021 giữa Chính phủ Việt Nam và 18 cơ quan Liên hợp quốc. Đại sứ nhấn mạnh đây là dấu ấn quan trọng nêu bật cam kết mạnh mẽ của Liên hợp quốc và Chính phủ Việt Nam trong Chương trình hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự vì sự phát biển bền vững đến năm 2030. Kế hoạch Chiến lược chung 2017-2021 được xây dựng phù hợp với Chiến lược Phát triển Kinh tế-Xã hội 2011-2020, Kế hoạch Phát triển Kinh tế-Xã hội 2016-2020 của Việt Nam, các Mục tiêu Phát triển Bền vững (SDG) tới năm 2030, cũng như các cam kết quốc tế của Việt Nam về quyền con người. Kế hoạch Chiến lược chung tiếp tục tạo thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ đối tác giữa Liên hợp quốc, Chính phủ, các đối tác tư nhân, các đối tác phát triển, các tổ chức và các nhóm phi chính phủ được thành lập hợp pháp. Đây cũng là nền tảng quan trọng để triển khai các hoạt động hợp tác cụ thể giữa Việt Nam và Liên hợp quốc trong những năm tới.
Được tín nhiệm bầu vào Hội đồng Nhân quyền (nhiệm kỳ 2014-2016), Việt Nam đã tham gia tích cực vào các nỗ lực thúc đẩy quyền con người trên thế giới, đề xuất và được thông qua Nghị quyết về tác động của biến đổi khí hậu với quyền trẻ em, đưa ra và tham gia nhiều sáng kiến như bảo vệ quyền lao động của người khuyết tật, bảo đảm môi trường làm việc an toàn cho người lao động trên biển, tăng cường giáo dục, phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em gái.Vì sự năng động, tích cực và chủ động, Việt Nam được tín nhiệm làm điều phối viên của ASEAN tại Hội đồng Nhân quyền. Trong vai trò này, Việt Nam rất tích cực trong việc điều phối lập trường của các nước ASEAN ở Hội đồng Nhân quyền và thay mặt ASEAN phát biểu các đề mục ở Hội đồng này. Không chỉ ở Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam cũng thúc đẩy các sáng kiến tương tự hoặc các chủ đề liên quan ở các diễn đàn khác, trong hoặc ngoài khuôn khổ Liên hợp quốc.
Đại sứ Đặng Đình Quý cũng khẳng định Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ quốc gia trong lĩnh vực bảo vệ quyền con người, thể hiện qua việc bảo vệ thành công hai Báo cáo kiểm điểm định kỳ (UPR) về quyền con người.
Sau 3 năm là thành viên Hội đồng Nhân quyền, Việt Nam đã có đóng góp thiết thực vào thúc đẩy đối thoại và hợp tác, tăng cường tính hiệu quả, minh bạch trong công việc của Hội đồng Nhân quyền, đóng góp xây dựng giá trị chung của nhân loại. Bên cạnh đó, đây cũng là cơ hội để đề cao chính sách, thành tựu, nỗ lực của Việt Nam trong việc thúc đẩy và bảo đảm quyền con người; thúc đẩy được các vấn đề Việt Nam có lợi ích như quyền kinh tế - văn hóa - xã hội, quyền của nhóm dễ bị tổn thương, biến đổi khí hậu và quyền con người, quyền của người lao động trên biển...
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng, trong thời gian tới, Việt Nam sẽ tiếp tục đóng góp tích cực vào việc duy trì hòa bình, ổn định, phát triển bền vững ở khu vực và trên thế giới, đồng thời phấn đấu đưa quan hệ hợp tác với Liên hợp quốc đi vào chiều sâu, có hiệu quả thiết thực. Việt Nam sẽ tiếp tục cùng các nước thành viên đề cao các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, thúc đẩy các mối quan hệ quốc tế công bằng, bình đẳng, hữu nghị và hợp tác, bảo đảm lợi ích chính đáng của tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển. Việt Nam cũng sẽ tăng cường tham gia ở cấp độ cao hơn vào các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, nỗ lực thực hiện thành công Chương trình nghị sự 2030, các Mục tiêu phát triển bền vững và Hiệp định Paris về chống biến đổi khí hậu, ủng hộ các nỗ lực cải tổ Liên hợp quốc theo hướng nâng cao hiệu quả, minh bạch và dân chủ hóa trong mọi hoạt động của tổ chức.
Quan hệ Việt-Ấn đang phát triển thực chất và hiệu quả
Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ Tôn Sinh Thành đã trả lời phỏng vấn báo chí về quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, cũng như các hoạt động của Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ trong thời gian qua. Đại sứ đánh giá với sự thực hiện đồng bộ các hoạt động ngoại giao chính trị, kinh tế và văn hóa, quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Ấn Độ đang phát triển sôi động, thực chất và hiệu quả.
Theo Đại sứ, hiện có 4 điểm nổi bật trong quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong 2 năm qua. Thứ nhất, quan hệ chính trị và sự tin cậy giữa hai nước được thắt chặt hơn nữa bởi các chuyến thăm cấp cao liên tục giữa hai bên. Trong các chuyến thăm nói trên, hai bên đã ký kết thêm 17 thỏa thuận hợp tác bao trùm trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, quốc phòng - an ninh, y tế, nông nghiệp, công nghệ thông tin…
Thứ hai, hợp tác quốc phòng - an ninh đã được nâng lên tầm cao nhất từ trước tới nay, với việc mở rộng trên tất cả các binh chủng từ hải quân đến không quân, lục quân; nội dung hợp tác không chỉ ở mức độ chia sẻ thông tin, giúp đỡ đào tạo nâng cao năng lực, mua bán vũ khí mà còn tiến tới hợp tác sản xuất thiết bị quân sự. Hai bên cũng đã lần đầu tiên tập trận hải quân chung. Ấn Độ trở thành đối tác quốc phòng quan trọng nhất của Việt Nam.
Thứ ba, quan hệ kinh tế giữa hai nước khởi sắc với kim ngạch thương mại tăng trưởng ấn tượng ở mức trên 40%, từ 5,6 tỷ USD năm 2016 lên đến 7,6 tỷ USD vào năm 2017. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan Việt Nam, kim ngạch thương mại song phương trong 6 tháng đầu năm 2018 đã đạt 5,44 tỷ USD, tăng 48,02% so với cùng kỳ năm trước, dự báo cả năm sẽ vượt mốc 10 tỷ USD.
Thứ tư, nhân kỷ niệm 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (1972-2017) và 10 năm quan hệ Đối tác chiến lược (2007-2017) giữa Việt Nam và Ấn Độ, các hoạt động ngoại giao văn hóa diễn ra sôi động chưa từng có. Bên cạnh sự kiện Những ngày Văn hóa Việt Nam và các triển lãm tranh, ảnh, liên hoan phim, biểu diễn ca mua nhạc diễn ra liên tục, thì lần đầu tiên một Phòng sách Việt Nam được thiết lập và Trung tâm nghiên cứu Việt Nam đã được ra đời tại New Delhi.
Đại sứ Tôn Sinh Thành khẳng định đây là kết quả của sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của cả hai nước trong thời gian qua. Hiện Ấn Độ vẫn đang giữ vị trí là nền kinh tế lớn tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Đây là tiền đề quan trọng, tạo nhu cầu lớn hơn cho trao đổi kinh tế thương mại giữa hai nước. Không chỉ khối lượng thương mại tăng lên mà các chủng loại mặt hàng trao đổi giữa hai nước cũng được mở rộng từ những mặt hàng nông sản và nguyên vật liệu truyền thống sang những mặt hàng chế tạo, phản ánh xu hướng liên kết ngày càng tăng giữa hai nền kinh tế trong một chuỗi sản xuất chung. Đồng thời, việc Hiệp định tự do hóa thương mại giữa Ấn Độ và ASEAN có hiệu lực từ năm 2015 cũng đem lại những tác dụng nhất định cho thương mại giữa hai nước.
Bên cạnh đó, cũng phải kể đến những nỗ lực ngoại giao kinh tế không mệt mỏi của Đại sứ quán trong thời gian qua. Đại sứ quán đã không chỉ liên tục tổ chức các cuộc xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch, hàng không, mà còn trực tiếp tham gia tháo gỡ các vướng mắc nảy sinh gây cản trở các hoạt động giao thương kinh tế giữa hai nước.
Trong lĩnh vực giao lưu kinh tế, Đại sứ Tôn Sinh Thành nhấn mạnh kết nối đóng vai trò then chốt và sẽ mang lại lợi ích trực tiếp đối với du lịch. Du khách Ấn Độ sang Việt Nam đã tăng từ 85.000 lượt khách năm 2016 lên 110.000 lượt khách năm 2017. Dự báo năm nay con số này có thể đạt 150.000 lượt khách. Nếu có đường bay trực tiếp giữa hai nước, con số này có thể đạt 300.000 lượt người/năm. Nếu tạo được tuyến đường biển trực tiếp giữa Việt Nam và Ấn Độ, thì thương mại giữa hai nước có thể tăng thêm hàng tỷ USD.
Nhờ có những nỗ lực của Đại sứ quán nhằm cải thiện kết nối giữa hai nước, hãng hàng không Vietjet đã chính thức công bố sẽ mở đường bay trực tiếp từ Thành Phố Hồ Chí Minh đi New Delhi từ tháng 10 năm nay. Hãng hàng không Indigo của Ấn Độ cũng đã có kế hoạch mở đường bay trực tiếp sang Việt Nam vào năm tới.
Về việc thành lập Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam tại Ấn Độ, Đại sứ Tôn Sinh Thành cho biết đây hiện là trung tâm nghiên cứu về Việt Nam duy nhất tại Ấn Độ, đưa Ấn Độ trở thành một trong số ít các quốc gia trên thế giới có một trung tâm nghiên cứu riêng về Việt Nam. Trung tâm Nghiên cứu Việt Nam không chỉ tạo nền tảng trao đổi học thuật, kết nối tri thức quan trọng giữa hai nước, mà còn trở thành một kênh quan trọng cho Đại sứ quán triển khai các hoạt động thông tin tuyên truyền đối ngoại.
Đánh giá về triển vọng mối quan hệ Việt - Ấn, Đại sứ Tôn Sinh Thành cho rằng mối quan hệ này có nền tảng rất vững chắc, đó là sự tin cậy thực sự giữa hai nước trên cơ sở sự hội tụ về lợi ích chiến lược và những tiềm năng hợp tác rất to lớn.
Quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga là tài sản quý báu của nhân dân hai nước
Trả lời phỏng vấn báo chí về quan hệ Việt Nam - Liên bang Nga, Đại sứ Việt Nam tại Liên bang Nga Ngô Đức Mạnh cho biết, từ khi thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1950, trở thành Đối tác chiến lược năm 2001 và nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện vào tháng 7-2012, quan hệ hợp tác giữa hai nước Việt Nam và Liên bang Nga đã được thử thách qua thời gian, trở thành tài sản quý báu của nhân dân hai nước, đang phát triển mạnh mẽ cả về bề rộng lẫn chiều sâu với nhiều thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực. Quan hệ chính trị với độ tin cậy cao ngày càng được tăng cường thông qua cơ chế trao đổi đoàn và tiếp xúc song phương thường xuyên ở các cấp, đặc biệt là cấp cao và cơ chế tham vấn, đối thoại chiến lược. Hai bên cũng luôn hợp tác và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương như Liên hợp quốc, APEC, ASEM, ASEAN - Nga… Gần đây nhất là chuyến thăm chính thức Nga của Chủ tịch nước Trần Đại Quang vào tháng 6-2017, Tổng thống Vladimir Putin tham dự APEC Việt Nam 2017 tại Đà Nẵng và có cuộc gặp cấp cao bên lề Hội nghị vào tháng 11-2017… đã tạo thêm động lực mới mạnh mẽ, thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả.
Đại sứ Ngô Đức Mạnh cho rằng quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại, đầu tư giữa hai nước tiếp tục phát triển năng động. Sau khi Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh Kinh tế Á - Âu chính thức có hiệu lực từ tháng 10-2016, kim ngạch thương mại hai nước tăng trưởng nhanh với tốc độ hơn 30%/năm. Về đầu tư, ngoài hợp tác trong lĩnh vực dầu khí, tính đến tháng 6, Liên bang Nga có 117 dự án đầu tư trực tiếp vào Việt Nam còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký đạt gần một tỷ USD. Việt Nam có 22 dự án đầu tư vào Nga với tổng số vốn đầu tư mới và tăng vốn đạt gần 3 tỷ USD. Quan hệ quốc phòng, an ninh giữa Việt Nam - Liên bang Nga có bước phát triển mới, đi vào chiều sâu, thực chất, nhất là trong hợp tác về đào tạo cán bộ, chuyển giao vũ khí, trang bị… Đáng chú ý, trong thời gian gần đây, quan hệ giữa các địa phương phát triển mạnh và ngày càng đi vào thực chất, chú trọng hơn đến hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, văn hóa, giáo dục. Các lĩnh vực du lịch, văn hóa, giao lưu nhân dân tiếp tục được đầy mạnh.
Theo Đại sứ Ngô Đức Mạnh, trong thời gian tới hai bên cần quyết liệt tích cực tìm kiếm những phương thức hợp tác mới, có tính khả thi cao, có lợi cho cả hai bên, đặc biệt cố gắng tạo những điểm đột phá. Thứ nhất, triển khai đồng bộ và có kết quả những thỏa thuận hợp tác giữa hai nước. Thứ hai, nâng cao vai trò cơ chế hoạt động của Ủy ban liên chính phủ, tăng cường công tác tham vấn, giám sát của các cơ quan Quốc hội hai nước đối với việc thực hiện các thỏa thuận đã ký. Thứ ba, cần cải tiến thủ tục hành chính, điều kiện thuận lợi cho việc đi lại và làm việc có thời hạn trên lãnh thổ của nhau. Và đặc biệt có biện pháp thúc đẩy thương mại, triển khai có hiệu quả các dự án của Nga tại Việt Nam; tăng cường giao lưu nhân dân.
Về những “điểm nghẽn” cản trở phát triển quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước, theo Đại sứ Ngô Đức Mạnh, đó là là việc chưa có những cơ chế hữu hiệu để phát huy những tiềm năng và thế mạnh của mỗi nước. Để hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào hệ thống phân phối tại Nga, vẫn còn tồn tại những rào cản nhất định như vấn đề kiểm dịch động thực vật, cũng như việc tiếp cận mạng lưới siêu thị. Thứ hai là giữa doanh nghiệp hai nước còn thiếu thông tin về nhau nên chưa có đủ độ tin cậy trong giao dịch thương mại. Vì vậy, để tạo điều kiện cho doanh nghiệp hai nước nắm bắt các thông tin về nhau, tăng cường các giao dịch trực tiếp, loại bỏ dần các chi phí trung gian, cần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. Mặt khác, cần xây dựng cơ chế hữu hiệu trong xử lý các tranh chấp thương mại theo đúng thông lệ quốc tế và luật pháp của hai nước. Một điểm nghẽn khác cần giải tỏa là vấn đề thanh toán. Trong điều kiện ổn định tương đối của đồng ruble và Việt Nam đồng, cần mở ra kênh thanh toán bằng nội tệ của hai nước. Liên quan đến thúc đây hợp tác địa phương và du lịch, hai bên cần tổ chức thêm các chuyến bay thuê tới các địa điểm du lịch ở Việt Nam và Nga. Các địa phương của ta cần chủ động hơn trong quảng bá hình ảnh và tiềm năng của mình.
Đại sứ Ngô Đức Mạnh cũng đề cập tới Năm Việt Nam tại Nga và Năm Nga tại Việt Nam vào năm 2019 là một sự kiện lớn, mang nhiều ý nghĩa trong việc tăng cường hợp tác giữa hai nước, với sự tham gia của nhiều bộ, ngành, địa phương của cả hai nước. Đây không phải chỉ là hoạt động giao lưu văn hóa, mà còn cả có việc trao đổi đoàn cấp cao, tổ chức các buổi tọa đàm trao đổi kinh nghiệm, các hoạt động xúc tiến thương mại, du lịch, đầu tư… Thời gian qua, Đại sứ quán đã kịp thời tham mưu cho các cơ quan chức năng trong nước về tình hình của Nga, về quan hệ giữa hai nước, đề xuất, kiến nghị về cách thức tổ chức các hoạt động của ta trong Năm Việt Nam tại Nga năm 2019. Đại sứ quán Việt Nam tại Liên bang Nga đã góp phần chủ động xây dựng các kế hoạch, chương trình kết nối giữa các địa phương và tiến tới hoàn chỉnh các chương trình hoạt động trong năm 2019 để trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt, sau đó tích cực triển khai thực hiện.
Cũng theo Đại sứ Ngô Đức Mạnh, công tác bảo hộ công dân, công tác cộng đồng cũng là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của Đại sứ quán. Thế hệ thứ hai của người Việt tại đây được sinh ra và lớn lên, được học hành bài bản tại Nga và đang tham dự tích cực vào đời sống kinh tế, xã hội ở sở tại. Đại sứ Ngô Đức Mạnh khẳng định chính quyền Nga đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho bà con ta sinh sống và làm việc tại Nga. Đại sứ quán cũng thường xuyên nắm bắt thông tin và kịp thời có những biện pháp giúp bà con giải tỏa những khó khăn vướng mắc, hỗ trợ bà con các thủ tục giấy tờ do Việt Nam cấp, giải quyết những vấn đề với chính quyền sở tại vì nhiều người Việt Nam không nắm vững tiếng Nga, cũng như luật pháp sở tại. Qua đó, giúp bà con ta ổn định cuộc sống, làm ăn trên đất bạn. Một số bà con vì những lý do khác nhau, đã vi phạm luật cư trú của Nga, Đại sứ quán đã tạo điều kiện thuận lợi để bà con hồi hương về nước trật tự./.
Ngành ngoại giao chủ động, sáng tạo để hội nhập hiệu quả  (12/08/2018)
Các địa phương cần phát huy tốt “vai trò đầu mối”, “trái tim hội nhập”  (12/08/2018)
Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát về thanh tra vụ việc, điều tra, xét xử các vụ án tham nhũng  (12/08/2018)
Vì một không gian an toàn và thân thiện cho thanh niên  (12/08/2018)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên