Tạo động lực cho trí thức Việt Nam phát triển đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
TCCS - Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam có vai trò quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của đất nước, đáp ứng yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trong đó, cần xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện thật tốt các chính sách, biện pháp phù hợp, tập trung đủ các nguồn lực cần thiết để xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh cả về số lượng và chất lượng; bảo đảm điều kiện và tạo động lực để trí thức Việt Nam phát huy được những tiềm lực, tinh hoa, trí tuệ để đóng góp vào quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.
Tạo động lực cho đội ngũ trí thức phát triển ở Việt Nam trong thời gian qua
Việc tạo động lực cho đội ngũ trí thức phát triển bao gồm hệ thống chính sách, biện pháp phù hợp tác động đến những nhân tố bên trong nhằm kích thích trí thức làm việc trong điều kiện cho phép tạo ra năng suất và hiệu quả cao đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong những năm gần đây, đội ngũ trí thức Việt Nam không ngừng phát triển cả về số lượng và chất lượng, đạt được nhiều thành tựu, trong đó có nguyên nhân từ việc đã bước đầu tạo được động lực cho đội ngũ trí thức phát triển, thông qua chú trọng vào giải quyết, tháo gỡ những khó khăn về chủ trương, chính sách, môi trường làm việc (lương, thưởng, chính sách đãi ngộ, trọng dụng,…); đào tạo, bồi dưỡng; tạo niềm tin và nâng cao giá trị của trí thức...
Thứ nhất, công tác đào tạo, bồi dưỡng trí thức ngày càng được coi trọng. Hiện nay, Việt Nam đã mở rộng giáo dục bậc cao (đại học và sau đại học), trước hết là tăng số lượng các trường đại học, cao đẳng. Tính đến năm 2020, cả nước có 460 trường đại học và cao đẳng, bao gồm 224 trường đại học và 236 trường cao đẳng; tính bình quân mỗi tỉnh, thành phố có khoảng 6,6 trường đại học, cao đẳng, tổng số sinh viên cả nước có khoảng trên 2,2 triệu em, đạt tỷ lệ khoảng 250 sinh viên/1 vạn dân. Trong đó, sinh viên đại học chiếm 66%, sinh viên cao đẳng chiếm 34%; nữ sinh chiếm 49,6%; số sinh viên học tập tại các trường công lập chiếm 85%, các trường ngoài công lập chiếm khoảng 15% tổng số sinh viên; sinh viên hệ chính quy là 1.962.000. Ngoài ra, có khoảng 80.000 lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại gần 40 quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới. Đây là lực lượng đông đảo, được đào tạo ở những cơ sở uy tín, đã và đang là nguồn bổ sung cho đội ngũ trí thức Việt Nam, cũng chính là động lực tiên quyết để phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam và xây dựng đất nước.
Từ năm 1980 đến năm 2015, sau 24 đợt xét, tổng số lượt giáo sư, phó giáo sư đã được công nhận ở nước ta là 11.619, trong đó có 1.680 giáo sư và 9.939 phó giáo sư. Riêng năm 2016 có thêm 65 giáo sư và 638 phó giáo sư được công nhận; năm 2017, số giáo sư, phó giáo sư đạt chuẩn tăng vọt lên 1.131 người (trong đó giáo sư là 74, phó giáo sư 1.071); năm 2019: 73 giáo sư, 349 phó giáo sư; năm 2020: 39 giáo sư, 300 phó giáo sư; năm 2021: 42 giáo sư, 363 phó giáo sư; năm 2022: 34 giáo sư, 349 phó giáo sư... Đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn học thuật cao hiện đang công tác, cống hiện trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt tham gia vào hoạt động giáo dục và đào tạo ở các trường, đại học, học viện và cao đẳng.
Việt Nam đã chủ động liên kết đào tạo với các nước có nền giáo dục hiện đại trên thế giới, do đó trí thức trẻ có cơ hội học tập, nghiên cứu, tiếp cận những tri thức hiện đại nhất, trở thành nguồn lực chủ lực trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh. Đồng thời, tiếp thu những bài học kinh nghiệm về đào tạo nguồn lực trí thức ở các nước phát triển trên thế giới, Việt Nam đã nhìn nhận vai trò của các tập đoàn kinh tế, doanh nghiệp không chỉ tham gia vào hoạt động sản xuất - kinh doanh, mà còn tham gia tích cực vào đào tạo, đào tạo lại và nâng cao chất lượng theo chiều sâu nguồn nhân lực trí thức.
Thứ hai, môi trường làm việc của trí thức ngày được bảo đảm. Xây dựng và hoàn thiện môi trường làm việc là một trong những vấn đề được Việt Nam quan tâm, bởi muốn trí thức cống hiến tài năng, trí tuệ của mình thì họ phải được làm việc trong môi trường thuận lợi, hiện đại và bảo đảm về vật chất và tinh thần. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta ban hành nhiều chính sách nhằm thu hút và tôn vinh đội ngũ trí thức; thành lập các giải thưởng quốc gia, các quỹ khuyến học, khuyến tài trong cả nước (Chương trình Học bổng tri thức Trẻ(1); Chương trình “Tri thức trẻ vì giáo dục”(2); Quỹ học bổng NDH(3)…) để giúp đỡ cho sinh viên, trí thức trẻ có điều kiện học tập, nghiên cứu và cống hiến cho xã hội.
Bên cạnh đó, một số tập đoàn, doanh nghiệp đã chủ động đi trước, đón đầu các thành tựu khoa học - công nghệ bằng cách huy động và sử dụng, trọng dụng đội ngũ trí thức có trình độ chuyên môn cao để đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa sản xuất, tạo ra các sản phẩm cạnh tranh với các tập đoàn, doanh nghiệp trên thế giới.
Để bảo đảm đời sống vật chất cho trí thức, nhất là đội ngũ cán bộ giảng viên có học hàm, học vị cao đang công tác ở các trường đại học, học viện trong cả nước, Việt Nam đã đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ về lương, thu nhập tăng thêm. Vì thế, mức thu nhập trung bình của trí thức Việt Nam cao hơn so với mặt bằng thu nhập chung của xã hội. Cùng với chế độ thu nhập tốt, một số trường đại học công lập còn có chính sách đãi ngộ đặc biệt ban đầu để thu hút và giữ chân lâu dài với giảng viên giỏi.
Bối cảnh hội nhập quốc tế và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đặt ra cho Việt Nam những thách thức về đổi mới khoa học - công nghệ và sức cạnh tranh của nền kinh tế, trí thức Việt Nam đã nỗ lực không ngừng nghiên cứu phát minh, sáng tạo, sáng chế ra nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh… Những cống hiến khoa học nhanh chóng được áp dụng, triển khai góp phần đẩy mạnh tăng trưởng, phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội cho người dân.
Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng, phát huy vai trò phản biện xã hội của trí thức, lắng nghe và tiếp thu những ý kiến phản biện dưới góc độ khoa học của trí thức trên các lĩnh vực... Đồng thời, hoạt động phản biện cũng là một "sân chơi" cho các nhà khoa học chân chính, có tinh thần yêu nước, đam mê khoa học hội tụ, đoàn kết, chia sẻ và học tập kinh nghiệm; đây cũng là một kênh để trí thức Việt Nam tham mưu cho Đảng, Nhà nước về đường lối, chủ trương đổi mới và hội nhập hiệu quả.
Thứ ba, thu hút được trí thức có trình độ cao ở nước ngoài về nước làm việc và sinh sống. Hiện nay, có khoảng 600.000(4) trí thức Việt kiều có trình độ trên đại học, tập trung chủ yếu ở các nước phát triển. Đây được xem là nguồn “chất xám” dồi dào nếu thu hút về làm việc sẽ đóng góp to lớn vào sự phát triển của đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực đổi mới sáng tạo và chuyển giao công nghệ, kể cả ngành kỹ thuật cao như vũ trụ, hàng không... Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc thu hút trí thức Việt kiều về sinh sống, học tập và làm việc, đóng góp cho sự phát triển của đất nước, nhất là góp phần tạo dựng cầu nối tri thức khoa học trong nước và thế giới; chuyển giao các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến trên thế giới; tư vấn chính sách phát triển...
Đánh giá về quá trình xây dựng, phát triển và đóng góp của trí thức, Đảng ta khẳng định: “Trí thức Việt Nam là nguồn lực lao động chất lượng cao, là lực lượng lao động sáng tạo, có vinh dự và bổn phận tiên phong, trực tiếp tham gia sự nghiệp đổi mới, cống hiến xây dựng, phát triển đất nước; nâng cao dân trí, nhân lực; bồi dưỡng, đào tạo nhân tài trên các lĩnh vực, góp phần quan trọng nâng tầm trí tuệ và sức mạnh dân tộc, thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền vững; là lực lượng có vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng; phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”(5) .
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc tạo động lực cho trí thức ở Việt Nam vẫn còn một số bất cập, hạn chế:
Một là, các chủ trương, chính sách về động lực, tạo động lực cho trí thức phát triển còn thiếu, chưa có sự đột phá. Thực tiễn cho thấy, chủ trương về đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng trí thức chưa được triển khai đồng bộ, hiệu quả trong thực tiễn. Một số chủ trương, chính sách không kịp thời, chưa phù hợp, nên quá trình triển khai thiếu hiệu quả, đơn cử như chính sách nhằm thu hút trí thức về địa phương có hoàn cảnh, điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn có nhiều bất cập, thậm chí không ít nơi bị phá sản...
Hai là, môi trường làm việc cho trí thức chưa thực bảo đảm, thu nhập của trí thức Việt Nam còn thấp so với trí thức ở các nước trong khu vực và thế giới, chưa đáp ứng được nhu cầu thiết yếu trong việc bảo đảm cuộc sống của bản thân và gia đình, ảnh hưởng lớn tới việc thu hút và phát huy được trí tuệ của trí thức vào sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Môi trường làm việc ở nhiều cơ quan, tổ chức thiếu tính chuyên nghiệp, khoa học; điều kiện, cơ sở vật chất chưa đáp ứng được yêu cầu. Nhiều trí thức du học, Việt kiều sau một thời gian về nước sống, làm việc lại tìm cách để chuyển ra nước ngoài làm việc. Tình trạng lãng phí nguồn lực và “chảy máu chất xám” đã và đang trở thành trở lực đối với sự phát triển đất nước.
Ba là, chính sách đầu tư và quản lý khoa học - công nghệ mang nặng thủ tục hành chính, cơ chế xin - cho. Ngoài ra, pháp luật và chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ cho những sản phẩm khoa học của trí thức chưa được bảo đảm, hoàn thiện. Nhiều công trình khoa học nhanh chóng bị “đánh cắp”, sao chép bản quyền. Thực tế này đã và đang diễn ra ở nhiều lĩnh vực khác nhau làm giảm lòng tin, nhiệt huyết cống hiến của đội ngũ trí thức.
Bốn là, nhiều tỉnh gặp khó khăn về cơ chế, chính sách, không thể thu hút được trí thức có trình độ cao về công tác. Nhiều địa phương thiếu trầm trọng trí thức ngành y, kiến trúc, xây dựng... Ngược lại, nguồn tuyển dụng các ngành khoa học xã hội, quản trị kinh doanh, kế toán dồi dào nhưng địa phương không có nhu cầu. Nhiều sinh viên giỏi, người có trình độ cao xin về tỉnh công tác nhưng địa phương không thể bố trí được do không có biên chế.
Việc phối hợp giữa nhà quản lý, cơ quan quản lý khoa học, người làm khoa học còn chưa chặt chẽ, thiếu cơ chế hiệu quả. Thậm chí ở một số nơi, tình trạng trí thức đang bị công chức hóa; một bộ phận trí thức được đào tạo chuyên môn sâu nhưng lại chuyển sang làm quản lý hoặc trái ngành nghề đào tạo.
Một số giải pháp tạo động lực cho trí thức Việt Nam phát triển trong thời gian tới
Tạo động lực cho trí thức phát triển toàn diện đáp ứng được yêu cầu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế là nhiệm vụ quan trọng của nước ta hiện nay. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải có chiến lược lâu dài, vừa cấp bách, là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị. Để tạo động lực cho trí thức Việt Nam phát triển, cần tập trung thực hiện một số giải pháp:
Thứ nhất, thống nhất nhận thức trong hệ thống chính trị và toàn xã hội về tầm quan trọng của việc tạo động lực cho trí thức phát triển trong cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tiếp tục nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, nhất là những người trực tiếp làm công tác quản lý hoạt động khoa học, hoạt động giáo dục - đào tạo, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao,… Đội ngũ cán bộ cần nhận thức sâu sắc, đầy đủ hơn về tầm quan trọng của tạo động lực cho trí thức phát triển,… để có những chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện một cách đúng đắn, phù hợp nhằm khai thác tối đa các điều kiện cần thiết cho trí thức phát triển.
Cần tuyên truyền, phổ biến kiến thức khoa học, những thành tựu mới của khoa học, ý nghĩa của khoa học đối với sự phát triển kinh tế, chính trị - xã hội,... Đồng thời, ghi nhận, vinh danh kịp thời những tấm gương tích cực, điển hình của trí thức và lên án những tiêu cực, sai trái trong hoạt động nghiên cứu khoa học.
Đội ngũ trí thức Việt Nam cần nhận thức rõ hơn trọng trách của mình trước yêu cầu sự nghiệp đổi mới đất nước. Để phát huy được năng lực bản thân và cống hiến nhiều hơn cho Tổ quốc, trí thức, nhà khoa học chân chính phải luôn nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, khả năng phối hợp trong nghiên cứu khoa học, đạo đức khoa học, tự đánh giá được năng lực bản thân, nhận thức được thế mạnh để phát huy, thấy được điểm yếu để khắc phục.
Khi nhận thức của hệ thống chính trị và xã hội được nâng cao, việc tạo động lực cho trí thức về mọi mặt (chủ trương, chính sách phù hợp, môi trường làm việc, lương, thưởng được nâng cao; tính công bằng trong cống hiến được coi trọng; niềm tin và giá trị của trí thức được khẳng định,…) được cải thiện, vai trò của trí thức quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế sẽ phát huy hơn nữa.
Thứ hai, tạo lập môi trường làm việc thuận lợi để trí thức phát triển. Tạo động lực cho trí thức phát triển là tổng hợp, tác động bởi nhiều yếu tố khác nhau (chủ trương, chính sách; bản chất và nhiệm vụ mà trí thức được giao; niềm tin và giá trị mà trí thức được nhận; môi trường làm việc tốt hay chuyên nghiệp). Trong đó, việc tạo lập môi trường thuận lợi (lương, thưởng, chế độ đãi ngộ, mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau,…) luôn được đánh giá là yếu tố quan trọng bậc nhất để thu hút và giữ chân trí thức, người tài hiện nay.
Giải pháp tạo lập môi trường làm việc thuận lợi cần được ưu tiên trong thời gian tới. Cần xây dựng và giữ được môi trường làm việc lành mạnh, mọi điều kiện thuận lợi cần thiết để người trí thức yêu nghề, gắn bó với nghề và hy sinh, cống hiến cao nhất trong lĩnh vực của mình. Tiếp tục khơi đậy khát vọng, lý tưởng cống hiến và tinh thần đoàn kết trong công việc. Thực tiễn cho thấy, Việt Nam phải tiếp tục nghiên cứu, xây dựng chính sách thích hợp để thu hút được những trí thức tài năng. Cần có cơ chế, chính sách phù hợp để phát huy hơn nữa vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo, người đứng đầu với việc xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng và trọng dụng trí thức: “Lãnh đạo, tổ chức phải biết quy tụ người tài, sử dụng và khai thác tối đa chất xám và năng lực, phát huy mọi tiềm năng của nguồn lao động, đặc biệt nguồn lao động chất lượng cao. Rà soát và sắp xếp đội ngũ lao động đúng người, đúng việc nhằm phát huy tối đa sức sáng tạo và khả năng đáp ứng cho từng công việc cụ thể”(6).
Thứ ba, tạo cơ chế, chính sách khuyến khích tạo động lực cho trí thức phát triển, từng bước xây dựng hoàn thiện đồng bộ hệ thống chính sách khuyến khích và thúc đẩy phát triển nguồn lực trí thức, đặc biệt là nhân tài. Chính sách đãi ngộ và trọng dụng nhân tài phải bắt đầu từ bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho bản thân và gia đình người trí thức; chú trọng việc bố trí, sắp xếp nhân lực phù hợp với năng lực cá nhân nhằm phát huy tối đa sở trường của người lao động; có chính sách phụ cấp và đãi ngộ đặc biệt (nhà ở, đào tạo...) cho nhân lực có trình độ cao, tạo điều kiện cho các tài năng nâng cao thu nhập bằng trí tuệ và năng lực của mình; có chính sách thu hút các nhà khoa học trình độ cao tham gia công tác giảng dạy, nghiên cứu, chuyển giao công nghệ tại các cơ sở đào tạo, tổ chức khoa học - công nghệ. Nên có sự học tập kinh nghiệm tiến bộ và quý trong cách thức tiến cử và sử dụng trí thức tài năng trong lịch sử dân tộc.
Trung ương và các địa phương cần nghiên cứu các chính sách hỗ trợ nghiên cứu khoa học, nhà ở, đi lại một cách hợp lý cho đội ngũ trí thức. Cơ quan quản lý khoa học nhà nước cần mạnh dạn giao những đề tài nghiên cứu lớn, mới cho những trí thức trẻ để họ có điền kiện cọ xát, học tập kinh nghiệm và thể hiện năng lực, tài năng của mình. Trong quá trình thực hiện, chúng ta cũng phải thường xuyên ủng hộ, khích lệ tinh thần và thái độ để trí thức thêm phần hăng say, nhiệt huyết hơn trong công việc được giao.
Cần tôn vinh, trọng dụng đội ngũ trí thức; ghi nhận, đánh giá đúng mức, biểu dương kịp thời những cống hiến của trí thức để phát huy được chuyên môn, trình độ khoa học - kỹ thuật cao của trí thức, cần đẩy mạnh hợp tác khu vực cũng như hợp tác quốc tế, thực hiện liên kết giáo dục với các trường đại học uy tín trên thế giới; có chiến lược đào tạo bài bản về kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng nghề nghiệp và khả năng ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ vào sản xuất và đời sống xã hội; thường xuyên tạo điều kiện cho trí thức được đào tạo chuyên sâu, đào tạo lại và trao đổi kinh nghiệm về các lĩnh vực nghiên cứu, quản lý phụ trách; có chính sách, cơ chế kiểm tra đánh giá, sàng lọc, lựa chọn và đào thải hợp lý.
Thứ tư, cần có những chính sách đột phá cho trí thức trẻ phát triển và hội nhập. Với đội ngũ đông đảo, được đào tạo ở nhiều lĩnh vực chuyên môn và môi trường khác nhau, trí thức trẻ Việt Nam đã và đang thể hiện bản lĩnh, trí tuệ của mình trong xây dựng, phát triển nền kinh tế trí thức. Tuy nhiên, để tránh “chảy máu chất xám”, lãng phí nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao, đòi hỏi chúng ta cần minh bạch, công khai công tác quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng trí thức trẻ. Mạnh dạn giới thiệu, bổ nhiệm trí thức trẻ vào những vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị và các cơ quan nghiên cứu khoa học của Nhà nước. Đa dạng hóa hơn cách thức tuyển chọn trí thức vào những vị trí then chốt trong hệ thống chính trị và các tập đoàn, tổng công ty do Nhà nước quản lý; khắc phục những tiêu cực trong công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ ở một số cơ quan trong bộ máy hành chính thời gian qua.
Môi trường học thuật và nghiên cứu khoa học phải được chú trọng đầu tư, xây dựng được những trường đại học, học viện đẳng cấp quốc tế để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tiếp tục nghiên cứu, triển khai xây dựng những khu công nghệ cao ở một số thành phố lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Bình Dương, Cần Thơ,…) để trí thức có điều kiện nghiên cứu, ứng dụng thành tựu khoa học mới nhất vào thực tiễn. Thành lập và sử dụng hiệu quả quỹ quốc gia hỗ trợ tài năng trẻ; khuyến khích các doanh nghiệp, tổ chức, tư nhân tham gia đào tạo, bồi dưỡng, phát hiện và sử dụng trí thức trẻ.
Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo quan trọng đặc biệt trong cuộc Cách mạng khoa học công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế; xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, bồi đắp nguyên khí quốc gia, khẳng định "sức mạnh mềm” Việt Nam. Để xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức, điểm mấu chốt là phải tạo động lực cho trí thức phát triển, từ đó góp phần vào quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước./.
----------------------
(1) Quỹ Học Bổng “Tri Thức Trẻ” được tài trợ bởi VASS, dùng để hỗ trợ học phí cho sinh viên - học sinh, đầu tư xây dựng hệ thống quản lý tại chỗ, xây dựng chương trình và các công cụ đào tạo tiếng Anh hiện đại trong khuôn viên các trường đại học, cao đẳng, trung cấp đóng trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
(2) Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Bộ Giáo dục và Đào tạo, báo Tuổi Trẻ và Tập đoàn Thiên Long đồng tổ chức đã chính thức khởi động
(3) Quỹ học bổng NDH được thành lập từ năm 2014 với mục tiêu hỗ trợ tài chính và định hướng tương lai cho các em học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn đạt thành tích tốt trong học tập.
(4) Quỳnh Trung: “Phát huy nguồn lực Việt ở nước ngoài”, Báo Tuổi trẻ điện tử, ngày 16-12-2021, https://tuoitre.vn/phat-huy-nguon-luc-viet-o-nuoc-ngoai-20211216080902609.htm
(5) Nguyễn Phú Trọng: “Nâng cao chất lượng chính sách xã hội; xây dựng đội ngũ trí thức nước nhà xứng tầm là nguyên khí quốc gia; thực hiện tốt chiến lược bảo vệ Tổ quốc, phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 8-10-2023, https://tapchicongsan.org.vn/web/guest/tin-tieu-diem/-/asset_publisher/s5L7xhQiJeKe/content/trung-uong-thong-nhat-ban-hanh-cac-nghi-quyet-va-quyet-nghi-mot-so-noi-dung-quan-trong-khac-gop-phan-tao-ra-khi-the-moi-xung-luc-moi-cho-su-nghiep-doi
(6) Gia Bảo: “Phát triển nguồn nhân lực tạo động lực thúc đẩy kinh tế tư nhân”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 26-11-2016, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/chi-tiet-tim-kiem/-/2018/42181/phat-trien-nguon-nhan-luc-tao-%C4%91ong-luc-thuc-%C4%91ay-kinh-te-tu-nhan.aspx
Phát triển truyền hình đa nền tảng trong kỷ nguyên số ở Việt Nam  (15/11/2023)
Thanh niên quân đội với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay  (12/11/2023)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển