Về quyền tự chủ và tính trách nhiệm xã hội của các trường đại học nước ta
Một trong những vấn đề mà ngành giáo dục và đào tạo nước ta lúng túng trong những năm đổi mới, đó là vấn đề quản lý tập trung và phân cấp quản lý cho các cơ sở giáo dục đại học. Trong đó, có vấn đề trao quyền tự chủ và tính trách nhiệm xã hội cho các trường đại học. Tuy nhiên, những cố gắng nhằm chuyển quyền quản lý từ trung ương xuống cơ sở chưa được thể hiện nhiều trong các chính sách và cũng chưa đồng bộ.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về phân cấp quản lý. Có thể tạm xem định nghĩa dưới đây phù hợp với tình hình phân cấp quản lý trong giáo dục ở nước ta: "Phân cấp là sự chuyển đổi quyền ra quyết định, trách nhiệm và nhiệm vụ từ cấp cao xuống cấp thấp hơn hoặc giữa các tổ chức". Có 3 loại cơ bản: Phân cấp nhiệm vụ (sự chuyển đổi nhiệm vụ và công việc nhưng không chuyển đổi quyền hành); Ủy quyền (sự chuyển đổi quyền ra quyết định từ mức cao xuống mức thấp hơn, nhưng quyền hạn này có thể bị trung ương rút lại); Trao quyền (sự chuyển đổi quyền hạn sang một đơn vị tự trị, đơn vị này có thể hoạt động độc lập mà không cần xin phép cấp trung ương).
Trong nền kinh tế tập trung bao cấp, trường đại học gần như không có quyền tự chủ, nhất nhất mọi nhu cầu, mọi việc... đều thực hiện theo kế hoạch cứng nhắc có sẵn từ trên dội xuống. Do vậy, ý tưởng trao quyền tự chủ cho các trường đại học hầu như chỉ được xuất hiện khi nền kinh tế tập trung bao cấp chuyển sang nền kinh tế thị trường và quyền này thực sự có được khi nền kinh tế thị trường được hoàn thiện. Thực tế này có thể thấy ở các trường đại học trong các nước có nền kinh tế thị trường phát triển lâu đời như Mỹ và các nước phương Tây. Quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học phụ thuộc về cơ bản vào các yếu tố sau:
1 - Vai trò của Nhà nước
Đại diện của Nhà nước là Chính phủ với toàn bộ hệ thống bộ máy và pháp luật của mình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Chính phủ trực tiếp định hướng cho giáo dục đại học, định ra chiến lược phát triển cho giáo dục đại học bằng những mục tiêu ưu tiên với những biện pháp thực hiện phù hợp nhằm chuyển hướng từ phát triển quy mô sang yếu tố chất lượng và coi chất lượng là sự sống còn của nhà trường đại học.
2 - Vai trò của thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, yếu tố thị trường sức lao động có tính quyết định đến hoạt động của các trường đại học. Thị trường lao động sẽ góp phần quan trọng đến sự phát triển nhanh, chậm, thậm chí đến sự tồn tại của một trường đại học thông qua sự đòi hỏi về tính phù hợp cả về số lượng lẫn chất lượng đào tạo của từng trường đại học. Trường đại học buộc mình phải luôn gắn kết mật thiết với nhu cầu và những biến đổi của thị trường lao động.
3 - Xã hội hóa giáo dục đại học
Xã hội hóa giáo dục đại học là yếu tố quan trọng giúp giáo dục đại học phát triển. Sự tham gia của xã hội vào hoạt động của trường đại học giúp cho trường đại học chẳng những gắn được với những nhu cầu đòi hỏi của xã hội, mà còn tự kiểm định được toàn bộ hoạt động của mình, dựa vào việc khai thác nguồn lực tiềm tàng đa phương từ các tổ chức, cá nhân trong xã hội để phát triển.
Nhìn lại những năm qua, ngành giáo dục và đào tạo mặc dù đã có rất nhiều cố gắng trong phân cấp quản lý cho các cơ sở giáo dục đại học theo hướng tăng dần quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội, nhưng, trên thực tế, vẫn còn nhiều điều bất cập như: sự quản lý của cấp bộ đối với các trường đại học còn cứng nhắc, ôm đồm và chưa hiệu quả; quyền hạn giao chưa đủ, mang tính "ban phát" theo từng thời gian trước sự đòi hỏi của các trường đại học và sức ép của xã hội; chưa tạo cơ chế thích ứng gắn kết các trường đại học với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; việc trao quyền hạn đối với giáo dục đại học được tiến hành theo phương thức nhỏ giọt, thiếu đồng bộ, nên khó thực hiện. Cấp bộ còn thiếu giám sát quá trình các trường thực hiện và chưa đưa ra được những chỉ đạo cơ bản, chưa có bước đi trong thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học, nên có hiện tượng tự phát hoặc "phá rào" dẫn đến một số rối loạn trong chỉ đạo và thực hiện. Còn lẫn lộn giữa quản lý nhà nước về giáo dục và quản lý của cơ sở trường đại học.
Để tạo những chuyển biến bước đầu trong việc tiến tới xây dựng chế độ tự chủ và tính trách nhiệm xã hội của các trường đại học, cần bám sát những nội dung, yêu cầu cơ bản:
Thứ nhất, đổi mới về tổ chức, quản lý, nội dung nhằm hướng tới thỏa mãn nhu cầu người học trong một nền giáo dục đại học gắn với phát triển kinh tế - xã hội, gắn với thị trường lao động.
Thứ hai, xây dựng một nền giáo dục đại học chất lượng cao theo hướng chuẩn hóa trên cơ sở phát huy yếu tố truyền thống dân tộc và hiện đại hóa tương thích được với các chuẩn giáo dục đại học của khu vực và quốc tế.
Bản thân từng trường đại học tự mình thay đổi nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy. Nhà trường đại học không còn chỉ là nơi cung cấp thông tin, giúp người học nhớ được, hiểu được, nắm được tri thức mà quan trọng hơn phải là vận dụng nhanh chóng những gì học được vào thực tiễn cuộc sống trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Chống chủ nghĩa quân bình trong giáo dục đại học. Mỗi trường đại học cần tạo điều kiện để từng thành viên trong trường, từng người học có thể phát huy được hết năng lực, sở trường và sự sáng tạo của mình trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và học tập. Chuyển quản lý trường đại học từ cách quản lý hành chính sang quản lý chất lượng và hiệu quả đào tạo. Chất lượng và hiệu quả đào tạo của từng trường đại học phải trở thành lẽ sống, danh dự, uy tín và đó chính là thương hiệu của nhà trường. Phát huy toàn diện khả năng, năng lực toàn diện và mũi nhọn chuyên sâu của từng trường bằng cạnh tranh lành mạnh trong hội nhập quốc tế và xu thế toàn cầu hóa.
Để các cơ sở giáo dục đại học có thể sớm thực hiện được những yêu cầu như trên và thiết lập được thương hiệu riêng cho mình với ý nghĩa là xây dựng một trường đào tạo có uy tín và danh tiếng trong nước cũng như trong khu vực và trên thế giới, các trường đại học cần được giao quyền tự chủ và trách nhiệm trên những lĩnh vực sau:
Về tổ chức: Được quyền sắp xếp bộ máy tinh gọn để đảm bảo thực hiện tốt nhất sứ mệnh và chức năng nhiệm vụ được giao. Được thành lập các khoa, phòng, ban, bộ môn và xây dựng các chuyên ngành mới. Được tổ chức tuyển sinh theo cách riêng của trường mình trên cơ sở công bằng, công khai, bình đẳng và đảm bảo chất lượng đầu vào. Tùy vào ngành nghề mà có thể có nhiều hình thức tuyển chọn người học ngay trong một trường sao cho phù hợp. Được tổ chức quá trình dạy và học theo học phần, tín chỉ hoặc kết hợp giữa học phần tín chỉ và niên chế. Xây dựng kế hoạch chiến lược phát triển trường theo hướng dân tộc, hiện đại tiên tiến đủ sức cạnh tranh lành mạnh trong nước, khu vực và quốc tế.
Về biên chế: Nhanh chóng xóa bỏ chế độ biên chế trong trường đại học. Trong khi chờ đợi những quy định cụ thể các trường đại học cần được tự chủ và chịu trách nhiệm xã hội về biên chế như được quyết định việc sắp xếp, phân công giảng viên, công chức, viên chức và cán bộ khác theo năng lực từng người phù hợp với vị trí công tác đòi hỏi của trường. Được toàn quyền điều động giảng viên, cán bộ trong nội bộ trường phục vụ nhu cầu lâu dài hoặc yêu cầu đột xuất. Được mời thỉnh giảng, hoặc hợp đồng nghiên cứu khoa học và các hợp đồng thuê, khoán bằng kinh phí được cấp và kinh phí tự có theo đúng quy định của pháp luật về lao động và sử dụng lao động hiện hành. Được quyền bổ nhiệm và miễn nhiệm người lãnh đạo các cấp từ phó hiệu trưởng trở xuống. Được quyền quyết định tất cả các chức danh khoa học và sư phạm thuộc phạm vi trường mình theo tiêu chuẩn của trường và quy định của Nhà nước.
Về giảng viên đại học: Giảng viên trong trường đại học giữ vai trò là người hướng dẫn giúp người học đến với tri thức, khoa học bằng đường đi tốt nhất, ngắn nhất, và luôn có sự đổi mới. Giảng viên và người học đều bình đẳng trước pháp luật, trước các quy chế, nội quy, quy định, trước tất cả các văn bản pháp quy về giáo dục. Giảng viên cần tôn trọng những suy nghĩ, tình cảm, ý kiến, ý định, nguyện vọng... của người học. Giảng viên luôn tạo cơ hội cho người học có đủ điều kiện để tự suy nghĩ, tự tìm hiểu và có khả năng tự quyết định. Giảng viên đại học cần luôn sáng tạo ngay trong từng bài giảng, giúp cho người học khi nghe giảng không ỷ lại, không chỉ nghe giảng một cách thụ động. Phương pháp giảng phải khoa học, sinh động, tạo bầu không khí sống động trong lớp học, luôn khích lệ người học cùng tham gia thảo luận, tranh luận trong một môi trường mà người học luôn khao khát được biết cái mới, khám phá cái mới và được ứng dụng cái mới.
Về tài chính: Tài chính trong các trường đại học bao gồm các nguồn từ ngân sách nhà nước, các khoản học phí, lệ phí, các nguồn thu lợi từ nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ, các nguồn thu từ hợp tác quốc tế và các khoản thu hợp pháp khác theo quy định của pháp luật. Trường cần được chủ động trong sử dụng các khoản chi như: Chi tiền lương, phụ cấp lương, tiền công, tiền thưởng, phúc lợi tập thể và các khoản khác cho các thành viên trong trường và các cộng tác viên theo thỏa thuận và chế độ quy định hiện hành. Các khoản chi cho giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học, các dịch vụ công cộng, vật tư, thiết bị, tài liệu in ấn, sách giáo khoa, chuyên khảo, tham khảo trong và ngoài nước. Chi cho các hoạt động thông tin, tuyên truyền, hội nghị, công tác phí trong và ngoài nước, chi hợp tác quốc tế. Chi cho mua sắm, sửa chữa thường xuyên và cố định, chi khen thưởng...
Về định hướng phát triển nhà trường: Được quyền quyết định phát triển nhà trường theo hướng nghiên cứu hoặc hướng nghề nghiệp ứng dụng. Tự xây dựng chương trình giảng dạy và học tập cho tất cả các ngành, nghề trong trường theo hướng dân tộc, hiện đại, chuẩn hóa, liên thông và chất lượng để chủ động hội nhập được với giáo dục đại học của khu vực và quốc tế. Nhà trường có quyền chọn lựa các chương trình và sách giáo khoa tiên tiến, hiện đại để biên soạn hoặc dịch thông qua hợp tác quốc tế hoặc khai thác trên mạng. Tự quyết định chỉ tiêu tuyển sinh theo hướng gắn chỉ tiêu với điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo, gắn với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, gắn với thị trường sức lao động địa phương, trong nước và cả ngoài nước. Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng dạy cách tư duy, cách học. Chuyển nền giáo dục đại học thi cử sang nền giáo dục đại học chất lượng. Bản chất của nền giáo dục đại học chất lượng là tạo khả năng trau dồi trí tuệ của từng người, khả năng tự làm mới mình, làm giàu tri thức cho mình trong giáo dục đại học.
Về quan hệ quốc tế: Được quyền thiết lập quan hệ với các trường đại học và cơ sở nghiên cứu, đào tạo khác trong khu vực và quốc tế về đào tạo và nghiên cứu khoa học theo luật pháp và quy định của Nhà nước. Xây dựng trung tâm du học tại chỗ trong trường. Được tự cử và quyết định các đoàn ra và đón các đoàn vào theo đúng luật pháp. Có chính sách riêng của trường để thu hút các chuyên gia quốc tế giỏi hỗ trợ trong đào tạo và nghiên cứu. Chủ động tham gia thị trường đào tạo nguồn nhân lực quốc tế và xuất khẩu lao động trình độ cao.
Chế độ trách nhiệm xã hội: Hiệu trưởng trường đại học thực hiện quyền tự chủ nhà trường cần chịu trách nhiệm trước pháp luật và xã hội trong việc quản lý như : Tổ chức và sử dụng đội ngũ giảng viên, công chức và các cán bộ khác trong biên chế và hợp đồng của nhà trường. Thực hiện quy chế dân chủ, quy chế sử dụng chi tiêu nội bộ, công khai việc sử dụng biên chế và tài chính trong trường. Tạo điều kiện để các thành viên của trường được tham gia thực hiện và giám sát theo tinh thần dân biết, dân làm, dân kiểm tra. Định kỳ báo cáo cơ quan quản lý cấp trên về kết quả hoạt động toàn diện của trường.
Thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học là yêu cầu quan trọng của nền giáo dục nước nhà trong xu thế hội nhập và phát triển. Trước mắt, cần quan tâm đến các giải pháp sau:
Một là, Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng các bộ, ngành liên quan, trước hết cần tập trung xây dựng chiến lược phát triển giáo dục đại học và hệ thống các chính sách đồng bộ, tạo môi trường pháp lý phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giúp các trường đại học có thể thực thi quyền tự chủ và tính trách nhiệm xã hội của mình một cách thuận lợi nhất, nhanh nhất và có hiệu quả nhất.
Hai là, tăng cường thanh tra, kiểm tra, giám sát theo đúng chức năng và nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục. Tránh làm thay hoặc gây phiền hà, cản trở vào những việc nghiệp vụ và sự vụ thuộc phạm vi chức năng, nhiệm vụ của trường đại học.
Ba là, hoàn thiện và triển khai rộng mô hình các đại học quốc gia hiện nay đang được "hưởng" quyền tự chủ và tính trách nhiệm xã hội cho tất cả các trường đại học khác trong cả nước. Tiến tới xóa bỏ các đẳng cấp trong giáo dục đại học mang nặng tính hình thức như hiện nay để trong tương lai gần, giáo dục đại học chỉ còn phân biệt các trường theo chất lượng đào tạo và chất lượng nghiên cứu khoa học.
Bốn là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, chức trách, quyền hạn của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và nhất là cho các trường đại học. Cần có một tiểu ban giám sát thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội trong Hội đồng quốc gia giáo dục. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực hiện quyền tự chủ và tính trách nhiệm xã hội trong các trường đại học.
Quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các trường đại học ở nước ta hiện nay phải được coi là động lực chủ yếu, là đòn bẩy để nhanh chóng phát triển giáo dục đại học, là giải pháp cơ bản và hữu hiệu trong xóa bỏ cơ chế "xin - cho" rơi rớt của chế độ tập trung, quan liêu, bao cấp vẫn đang tồn tại nặng nề hiện nay trong quản lý giáo dục nói chung và quản lý giáo dục đại học nói riêng ở nước ta hiện nay. Giao quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội cho các trường sẽ là "khoán 10" đối với phát triển giáo dục đại học. Có và được thực hiện đầy đủ quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của mình, chắc chắn các trường đại học nước ta sẽ nhanh chóng tự mình tạo ra cơ hội và đường đi ngắn nhất, hiệu quả nhất trong đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao, chất lượng cao cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và chủ động nhanh chóng trên con đường hội nhập với khu vực và quốc tế trong xu thế toàn cầu hóa.
Mỗi thày cô giáo là một tấm gương về đạo đức, tự học và sáng tạo  (16/11/2007)
Cách mạng Tháng Mười và những hoạt động khởi đầu của V.I.Lê-nin cho văn hóa, văn nghệ Xô-viết  (15/11/2007)
Ngày hội truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc  (15/11/2007)
15 năm quan hệ đối tác toàn diện Việt Nam - Hàn Quốc  (15/11/2007)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên