TCCS - Nước ta đang xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 và Kế hoạch 5 năm 2011 - 2015. Vì vậy, nhìn lại và đánh giá những việc đã làm được cũng như những tồn tại, hạn chế trong 5 năm qua là điều cần thiết cho những bước phát triển tiếp theo của đất nước.

Bước vào thực hiện mục tiêu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đề ra(1), nước ta đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi và kế thừa được các thành tựu của 20 năm đổi mới. Tuy nhiên, từ cuối năm 2007 tình hình kinh tế thế giới diễn biến theo chiều hướng phức tạp và không ổn định. Đến năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái toàn cầu đã tác động mạnh đến mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của nước ta. Trước tình hình đó, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã đánh giá tình hình, xác định mục tiêu và giải pháp phát triển kinh tế - xã hội nửa nhiệm kỳ còn lại của Đại hội X như sau: Chủ động ngăn chặn suy giảm kinh tế, phòng ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý, bền vững, bảo đảm an sinh xã hội, đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tăng cường hợp tác và chủ động hội nhập quốc tế... Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội(2).

Nhờ sự kiên trì và thực hiện sáng tạo đường lối đổi mới; sự quyết tâm và thống nhất cao trong lãnh đạo của Đảng và Nhà nước; sự giám sát có hiệu quả của Quốc hội; sự chỉ đạo điều hành quyết liệt tập trung của Chính phủ; sự phối hợp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên của Mặt trận; sự nỗ lực của các ngành, các cấp, các doanh nghiệp và toàn dân, chúng ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu nhiệm vụ mà Đại hội X của Đảng và Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010 đã đề ra. Nhiều mục tiêu đã được hoàn thành trong điều kiện rất khó khăn của nền kinh tế. Dưới đây là những thành tựu chủ yếu mà nền kinh tế quốc dân đã đạt được:

Trước hết, nước ta đã vượt qua khó khăn, thách thức do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm ước đạt 7%, thuộc loại cao so với các nước trong khu vực(3). Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục phát triển ổn định, bảo đảm an ninh lương thực và tạo nguồn hàng xuất khẩu. Giá trị tăng thêm của ngành nông, lâm, ngư nghiệp đạt 3,35%/năm, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra. Tăng trưởng khu vực dịch vụ đạt 7,73%/năm, xấp xỉ mục tiêu kế hoạch 5 năm. Ngành công nghiệp và xây dựng chịu ảnh hưởng nặng của suy thoái kinh tế thế giới, nhưng đang từng bước phục hồi lại đà tăng trưởng của các năm đầu thực hiện kế hoạch 5 năm, với tốc độ tăng giá trị tăng thêm bình quân 5 năm đạt 7,8%.

Kinh tế vĩ mô cơ bản giữ được ổn định, lạm phát từng bước được kiềm chế, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Thu ngân sách nhà nước vượt kế hoạch đề ra, bảo đảm các nhu cầu chi nhằm phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh, an sinh và các dịch vụ xã hội. Cân đối ngoại tệ và cán cân thanh toán quốc tế nằm trong tầm kiểm soát. Các chỉ số về nợ của Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia nằm trong giới hạn an toàn cho phép (dưới 50% GDP).

Hai là, tiềm lực và quy mô nền kinh tế tăng lên, nước ta đã ra khỏi tình trạng kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.

Tiềm lực kinh tế không ngừng tăng lên, năng lực sản xuất của các ngành đều tăng: năm 2010 sản xuất xi-măng đạt 50 triệu tấn (2005: 30,8 triệu; 2000: 13,3 triệu); than đạt 42 triệu tấn (2005: 34,1 triệu; 2000: 11,6 triệu tấn), thép cán đạt 6 triệu tấn (2005: 3,4 triệu tấn; 2000: 1,6 triệu tấn),... Nhiều nông sản xuất khẩu có khối lượng lớn, đứng thứ hạng cao trên thế giới: xuất khẩu gạo, cà phê của Việt Nam đứng thứ hai, hạt tiêu, hạt điều đứng thứ nhất, chè đứng thứ năm, thủy sản đứng thứ mười thế giới; cao su đứng thứ nhất Đông Nam Á.

Thị trường trong nước và quy mô nền kinh tế tăng lên không ngừng. Năm 2010, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ vào khoảng 77 tỉ USD, GDP theo giá hiện hành đạt gần 106 tỉ USD (năm 2005: 52,9 tỉ; 2000: 31,2 tỉ USD). Kim ngạch xuất khẩu không ngừng tăng lên, năm 2010 dự kiến đạt trên 60 tỉ USD, bằng 57% GDP. GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành dự kiến đạt khoảng 1.200 USD, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra khoảng 1.050 - 1.100 USD và nước ta đã ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp theo phân loại của Ngân hàng Thế giới. Nếu tính theo sức mua tương đương, thu nhập bình quân của nước ta khoảng 3.400 USD /người (năm 2008 là 2.700 USD, xếp thứ 120 trên thế giới). Đây là kết quả đáng khích lệ do công cuộc đổi mới mang lại.

Ba là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện.

Các chủ trương đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được thể chế hóa thành pháp luật, cơ chế chính sách ngày càng đầy đủ, đồng bộ hơn. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh theo hướng phù hợp hơn và tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Việc kiện toàn các tổng công ty và thí điểm thành lập các tập đoàn kinh tế nhà nước đạt kết quả trên nhiều mặt, góp phần tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Kinh tế ngoài nhà nước với tỷ trọng chiếm 46,5% GDP, tiếp tục phát triển và hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, góp phần quan trọng vào phát triển của nền kinh tế, giải quyết việc làm, thu nhập cho người lao động. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, đóng góp trên 18% GDP và góp phần nâng cao trình độ công nghệ sản xuất, quản lý và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Các loại thị trường cơ bản đã được hình thành, đang từng bước phát triển thống nhất trên cả nước và gắn kết với thị trường thế giới.

Bốn là, huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư phát triển phục vụ cho quá trình tăng trưởng kinh tế.

Trong giai đoạn 5 năm 2006 - 2010 đã huy động được một khối lượng vốn khá lớn phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng huy động vốn đầu tư toàn xã hội vẫn đạt mức khá cao, trong 5 năm đạt khoảng 174 tỉ USD, tăng 18,2%/năm và đạt 42,9% GDP (bình quân 35 tỉ USD/năm, trong đó vốn trong nước chiếm 67%), vượt kế hoạch đề ra. Nguồn vốn ODA cam kết năm sau cao hơn năm trước, vốn ODA giải ngân 5 năm đạt gần 13 tỉ USD, vượt kế hoạch đề ra. Thu hút được nhiều nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), dù trong bối cảnh luồng vốn FDI trên thế giới suy giảm (năm 2008 nguồn vốn cam kết đạt mức kỷ lục, trên 71 tỉ USD, hiện nay có trên 11.000 dự án đầu tư nước ngoài đang hoạt động với vốn đăng ký trên 180 tỉ USD.

Năm là, các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ và công tác an sinh xã hội có tiến bộ trên một số mặt; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện; công tác bảo vệ tài nguyên môi trường được chú trọng hơn.

Giáo dục và đào tạo, khoa học - công nghệ tiếp tục được quan tâm phát triển. Công tác an sinh xã hội được đặc biệt coi trọng, nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, người có thu nhập thấp và những đối tượng chính sách khác được thực hiện có hiệu quả. Thu nhập và mức sống của người dân ngày càng được cải thiện. Tuổi thọ trung bình của dân số nước ta đạt 72,8 tuổi (nam 70,2 tuổi, nữ 75,6 tuổi), cao hơn mức trung bình của thế giới (nam 67 tuổi, nữ 71 tuổi). Tỷ lệ bác sĩ trên một vạn dân của nước ta đạt 7 bác sĩ, trong khi đó mức trung bình của thế giới chỉ đạt 4 bác sĩ. Tỷ lệ người dân sử dụng in-tơ-net của nước ta đạt khoảng 27%, cao hơn mức bình quân của thế giới (23%). Chỉ số phát triển con người (HDI) đạt mức trung bình cao của thế giới (0,733). Theo điều tra mức sống dân cư theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Thế giới và Tổng cục Thống kê, tỷ lệ hộ nghèo không ngừng giảm, từ 37,4% (năm 1998), xuống còn 19,5% (năm 2004) và 14,5% (năm 2008). Nhận thức về bảo vệ môi trường được nâng lên. Việc phòng ngừa, khắc phục suy thoái, ô nhiễm môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu được quan tâm hơn.

Sáu là, cải cách hành chính và công tác phòng, chống tham nhũng có chuyển biến tíchcực.

Nhiều thủ tục hành chính phức tạp, rườm rà không cần thiết được loại bỏ. Thực hiện công khai các thủ tục hành chính, trong đó có việc công bố các thủ tục hành chính trên in-tơ-net đã giúp tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc, phiền hà, giảm chi phí và thời gian cho người dân và doanh nghiệp. Hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước các cấp được nâng cao. Công tác kiểm tra, thanh tra và giám sát được đẩy mạnh, góp phần thực hiện tốt các chủ trương thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng chống tham nhũng.

Bảy là, quốc phòng, an ninh được giữ vững, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; công tác đối ngoại, hợp tác quốc tế ngày càng mở rộng.

Tiềm lực quốc phòng và an ninh tiếp tục được tăng cường. Thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân từng bước được điều chỉnh phù hợp với quá trình mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế, tạo sức mạnh tổng hợp góp phần giữ vững môi trường hòa bình ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.

Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Việc mở rộng các quan hệ song phương và đa phương đã đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước. Quan hệ đối tác được mở rộng, cùng với các hoạt động hữu nghị, giao lưu và hợp tác nhân dân với các nước láng giềng, bạn bè truyền thống và các nước lớn được đẩy mạnh góp phần quan trọng vào việc tạo dựng và giữ vững môi trường quốc tế hòa bình, ổn định và thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác đối ngoại cũng đã góp phần tích cực phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, gắn kết cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với quê hương, đất nước.

Bên cạnh những thành tựu đạt được trên đây, việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội 5 năm 2006 - 2010 cũng còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục:

Thứ nhất, nền kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng và hiệu quả tăng trưởng chưa cao; sức cạnh tranh thấp; một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch 5 năm đề ra. Tăng trưởng kinh tế nước ta trong thời gian qua chủ yếu dựa vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng. Các số liệu thống kê từ 2003 đến nay cho thấy yếu tố vốn đóng góp vào tăng trưởng chiếm tới 52,7%, cao gấp khoảng 3 lần so với đóng góp của lao động (19,1%) và gấp khoảng 2 lần đóng góp của yếu tố năng suất tổng hợp - TFP (yếu tố TFP chỉ chiếm 28,2% so với mức 35% - 40% của các nước trong khu vực ASEAN và mức 60% - 75% của các nước phát triển). Cơ cấu kinh tế giữa các ngành, lĩnh vực chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng còn chậm.

Năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh quốc gia chậm được cải thiện và còn ở mức thấp so với các nước trong khu vực. Tài chính quốc gia tuy có được cải thiện, nhưng an ninh tài chính chưa thực sự vững chắc. Còn nhiều yếu tố chưa ổn định, bội chi ngân sách còn cao, nhập siêu còn lớn. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển còn thấp. Tình trạng đầu tư dàn trải kém hiệu quả chậm được khắc phục. Sự mất cân đối về phát triển giữa các vùng vẫn còn lớn.

Thứ hai, kết cấu hạ tầng tuy đã có bước phát triển, nhưng thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu và đang cản trở sự phát triển của nền kinh tế, nền tảng để nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Mạng lưới giao thông chưa hoàn chỉnh, chất lượng thấp, chưa có đường bộ cao tốc, đường sắt cao tốc, hải cảng và sân bay hiện đại. Tính đến hết năm 2008, cả nước chỉ có 41% đường bộ được rải nhựa hoặc bê-tông. Chất lượng đường bộ còn rất thấp và lạc hậu. Các cảng biển chưa có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải lớn trên thế giới. Nhiều cảng hàng không chưa đủ khả năng tiếp nhận máy bay vào ban đêm hoặc khi thời tiết xấu. Nguồn và lưới điện chưa đáp ứng kịp yêu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân. Hệ thống thủy lợi nước ta phát triển chưa đồng bộ, nhiều công trình đã quá cũ và xuống cấp, hạ tầng thủy lợi không đáp ứng được yêu cầu khai thác và sử dụng tổng hợp đa mục tiêu. Hạ tầng bưu chính viễn thông tuy phát triển mạnh mẽ ở khu vực đô thị nhưng còn kém phát triển ở khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng miền núi, hải đảo. Kết cấu hạ tầng đô thị, đặc biệt là giao thông và cấp thoát nước ở các đô thị đang trong tình trạng không đồng bộ, kém chất lượng và quá tải không đáp ứng được nhu cầu. Tình trạng thiếu điện đang làm tổn hại lớn đến sản xuất, làm giảm chất lượng cuộc sống và sinh hoạt. Tình trạng tắc nghẽn giao thông, ngập úng vẫn đang là vấn đề lớn cần phải giải quyết ở các đô thị lớn, nhất là ở Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.

Thứ ba, việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn chậm và có nhiều vướng mắc, chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách còn tồn tại nhiều bất cập, chưa thật đồng bộ và thống nhất. Môi trường kinh doanh chưa thật sự bình đẳng và thông thoáng. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước thấp. Việc phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã và các hình thức hợp tác khác còn chậm, chưa thực sự có chuyển biến về chất. Những yếu tố bảo đảm tính đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường chưa được chú ý đúng mức và chưa có lộ trình rõ ràng, nhất là các lĩnh vực văn hóa, xã hội.

Việc hình thành các loại thị trường chậm và chưa thật đồng bộ, còn nhiều lúng túng trong quá trình phát triển và quản lý. Thị trường lao động chứa đựng nhiều yếu tố bất cập. Thị trường khoa học - công nghệ còn nhỏ bé, hoạt động chưa có hiệu quả. Thị trường chứng khoán sau giai đoạn phát triển "nóng" đã có dấu hiệu chững lại, hiệu quả khai thác và huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán cần được đánh giá cụ thể và chính xác hơn. Cần cải thiện sự minh bạch về thông tin trên thị trường nhằm giúp cho cơ chế thị trường hoạt động có hiệu quả.

Thứ tư, chất lượng nguồn nhân lực chưa có cải thiện đáng kể, trình độ khoa học và công nghệ còn lạc hậu; công tác tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo và chăm sóc sức khỏe nhân dân có mặt còn hạn chế. Chưa xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng quy mô, số lượng với chất lượng đào tạo. Còn có sự mất cân đối giữa đào tạo và nhu cầu thực tế, sự thiếu gắn kết giữa quá trình đào tạo với thực tế sử dụng lao động. Trình độ phát triển khoa học và công nghệ nước ta chưa tương xứng với tiềm năng và đang ở trong tình trạng tụt hậu so với một số nước trong khu vực. Chưa đạt được hiệu quả mục tiêu thu hút, chuyển giao và nắm bắt tiến bộ về khoa học - công nghệ thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và viện trợ quốc tế. ứng dụng khoa học và công nghệ vào thực tế sản xuất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội hạn chế. Tình trạng tái nghèo ở một số vùng khó khăn có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng có xu hướng mở rộng (hệ số chênh lệch về thu nhập bình quân 1 người 1 tháng giữa nhóm hộ giàu nhất và nghèo nhất năm 2008 là 8,9 lần, tăng cao hơn so với các năm trước: năm 2002 là 8,1 lần; năm 2004 là 8,3 lần; năm 2006 là 8,4 lần). Chất lượng công tác bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là ở cấp cơ sở còn thấp, tình trạng quá tải ở các bệnh viện trung ương còn diễn ra phổ biến; vệ sinh an toàn thực phẩm chưa được bảo đảm.

Thứ năm, công tác bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu còn nhiều bất cập. Tình trạng ô nhiễm môi trường xảy ra nghiêm trọng ở một số khu công nghiệp, làng nghề, nhà máy, xí nghiệp gây tác động xấu tới sức khỏe của nhân dân. ảnh hưởng của thiên tai và những diễn biến về thay đổi khí hậu toàn cầu có xu hướng nghiêm trọng hơn, gây nhiều áp lực đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Hệ thống kiểm tra, giám sát các hoạt động về khai thác tài nguyên, bảo vệ, môi trường chưa được thực hiện một cách đồng bộ. Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường, khai thác tài nguyên thiên nhiên còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa có đủ các chế tài để xử lý các trường hợp vi phạm.

Thứ sáu, tổ chức và quản lý điều hành của Nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu. Tổ chức bộ máy chức năng, nhiệm vụ của hệ thống hành chính nhà nước vẫn chồng chéo, chưa có sự phối hợp tốt. Năng lực xây dựng thể chế, lập quy hoạch, kế hoạch, dự báo, phân tích kinh tế còn bất cập và yếu kém. Nhiều vấn đề bức xúc về kinh tế - xã hội chậm được giải quyết. Chất lượng cán bộ công chức chưa cao, chưa đáp ứng được nhiệm vụ. Thủ tục hành chính vẫn tồn tại nhiều phiền hà, vướng mắc. Các hiện tượng quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra ở một số nơi.

Phát huy những kết quả đã đạt được trong 5 năm qua, tận dụng cơ hội phát triển, nhìn thấu những khó khăn, hạn chế cả của nền kinh tế và quản lý vĩ mô để có những giải pháp kịp thời, đồng bộ và sáng tạo... là phương châm để chúng ta tiếp tục xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 và Kế hoạch 5 năm 2011 - 2015, thực hiện thành công những mục tiêu cơ bản để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, quốc gia đạt trình độ phát triển trung bình theo các tiêu chuẩn của thế giới./.
 
________________________________________________________

(1) "Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của nhân dân. Tạo được nền tảng để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế"

(2) Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2009, tr 175 - 176

(3) Theo số liệu của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), 5 năm 2006 - 2010, các nước ASEAN tăng bình quân 4,6%, trong đó Thái Lan tăng 2,8%, Ma-lai-xi-a tăng 4%, Phi-lip-pin tăng 4,2%, In-đô-nê-xi-a tăng 5,6%, Xin-ga-po tăng 4,4%