Giải pháp phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
Phát triển bền vững là sự phát triển bảo đảm duy trì mức tăng trưởng kinh tế cao và liên tục, giải quyết tốt vấn đề môi trường, bảo đảm an sinh và công bằng xã hội trong một thể chế chính trị vững mạnh, trong đó có sự minh bạch, rõ ràng, có tính hiệu lực của hệ thống luật pháp, chính sách, sự đồng thuận của xã hội, sự ổn định về chính trị.
Phát triển kinh tế nhanh là chỉ thời gian gia tăng quy mô kinh tế ngắn, tức là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao (7% - 10%), tỷ trọng các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ tăng cao. Những nền kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững đều có chính trị và kinh tế vĩ mô ổn định, tỷ lệ lạm phát thấp, quản lý nhà nước tốt, môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, mọi tầng lớp xã hội được thụ hưởng thành quả của tăng trưởng.
Kinh tế Việt Nam tăng trưởng khá nhanh trong một thời gian dài, GDP tăng 7%/năm trong giai đoạn 2005 - 2010 và đạt giá trị 101,6 tỉ USD, gấp 3,26 lần năm 2000; thu ngân sách, kim ngạch xuất khẩu gấp 5 lần; GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp, các cân đối lớn của kinh tế vĩ mô cơ bản được bảo đảm; thể chế kinh tế thị trường hình thành đã tạo điều kiện cho nhiều doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh. Giai đoạn 2006 - 2010, số doanh nghiệp tăng hơn 2,3 lần và số vốn tăng 7,3 lần so với 5 năm trước. Văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt trên 20% tổng chi ngân sách. Đến năm 2010, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc; đã giải quyết việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%; tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%; đời sống người dân từng bước được cải thiện; tuổi thọ trung bình tăng từ 67 tuổi lên 72,8 tuổi. Quốc phòng, an ninh được bảo đảm, hoạt động đối ngoại đạt nhiều thành tựu, thế và lực của Việt Nam ở khu vực và trên thế giới không ngừng được nâng cao.
Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam cũng bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân chủ quan là chưa xây dựng được các giải pháp nhằm phát huy tiềm năng, thế mạnh và thời cơ thuận lợi để tạo bước phát triển nhanh và bền vững. Phân tích, đánh giá thực trạng kinh tế - xã hội trong thời gian qua, đề xuất các nhóm giải pháp chủ yếu nhằm phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế Việt Nam là một vấn đề mang tính thời sự và đòi hỏi bức thiết của thực tiễn.
Mục tiêu phát triển của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 xác định mục tiêu tổng quát: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau”(1), trong đó, có các chỉ tiêu kinh tế, văn hóa, môi trường cụ thể sau:
Ổn định kinh tế vĩ mô, tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 7% - 8%/năm; GDP năm 2020 theo giá so sánh gấp khoảng 2,2 lần năm 2010. GDP bình quân đầu người giá thực tế đạt khoảng 3.000 USD; cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng hiện đại, tăng nhanh tỷ trọng các ngành công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỷ trọng các ngành nông nghiệp, đưa tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn khoảng 30% - 35% lao động xã hội. Yếu tố năng suất tổng hợp đóng góp vào tăng trưởng ít nhất 35%; giảm tiêu hao năng lượng tính trên GDP 2,5% - 3%/năm. Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỷ lệ đô thị hóa đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%; chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao của thế giới; tốc độ tăng dân số ổn định ở mức khoảng 1%; tuổi thọ bình quân đạt 75 tuổi; đạt 9 bác sĩ và 26 giường bệnh trên 10.000 dân, thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân; lao động qua đào tạo đạt trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% tổng lao động xã hội; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân 1,5% - 2%/năm; thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5 lần năm 2010; tỷ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng/người; số sinh viên đạt 450 trên 10.000 dân. Cải thiện chất lượng môi trường. Đến năm 2020, đưa tỷ lệ che phủ rừng lên 45%; hầu hết dân cư được sử dụng nước sạch; 100% số cơ sở sản xuất, kinh doanh mới áp dụng công nghệ sạch; trên 80% các cơ sở sản xuất kinh doanh hiện có đạt tiêu chuẩn về môi trường; các đô thị loại 4 trở lên và tất cả các khu công nghiệp, khu chế xuất có hệ thống xử lý nước thải tập trung, 95% chất thải rắn thông thường, 85% chất thải nguy hại và 100% chất thải y tế được xử lý đạt tiêu chuẩn.
Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020
Để đạt mục tiêu đề ra, trong thời gian tới cần quyết liệt thực hiện đồng bộ nhiều nhóm giải pháp, trong đó tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục tăng cường hơn nữa công tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và đôn đốc tổ chức thực hiện của Đảng và Nhà nước. Trong thời gian tới, Đảng và Nhà nước cần tiến hành đổi mới hệ thống chính trị thích ứng với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo sự đồng thuận cao giữa các tầng lớp nhân dân trong triển khai thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Hướng chỉ đạo tập trung vào phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế, xem phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp, đặc biệt là các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, phát triển; tích cực thí điểm nhiều mô hình, cơ chế, chính sách mới, từ đó rút kinh nghiệm, nhân rộng điển hình; mở rộng thị trường quốc tế, tạo điều kiện hợp tác quốc tế, đầu tư trong các lĩnh vực kinh tế.
Thứ hai, tập trung hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cho phép thí điểm nhiều mô hình kinh tế mới. Việc xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa nền tảng quan trọng hàng đầu đối với phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế trong giai đoạn tới, trong đó cần tập trung vào một số trọng tâm chủ yếu sau:
- Trung ương Đảng chỉ đạo Chính phủ, các bộ, ngành Trung ương khẩn trương rà soát các văn bản bất hợp lý, cản trở phát triển kinh tế, đồng thời đề xuất các cơ chế, chính sách tạo thuận lợi cho phát triển sản xuất; xây dựng hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ, có tính khoa học cao. Sớm áp dụng quy trình quản lý công vụ tiên tiến (theo quy chuẩn ISO), công khai, minh bạch.
- Xây dựng cơ sở pháp lý để các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu cùng phát triển; tiếp tục đổi mới và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp; đổi mới việc kết hợp kinh tế với quốc phòng theo hướng xây dựng một số tổ hợp công nghiệp quốc phòng; tiếp tục có cơ chế, chính sách phát triển nhiều thành phần kinh tế, nhất là khu vực kinh tế tư nhân, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
- Tạo hành lang pháp lý cho phép tiến hành thí điểm xây dựng một số mô hình kinh tế mới, như khu kinh tế mở, khu kinh tế tự do, đặc khu kinh tế.
- Củng cố tổ chức nhằm hoàn thiện hệ thống thông tin kinh tế theo hướng cung cấp thông tin một cách khoa học, chính xác phục vụ cho nhu cầu quản lý nhà nước và nghiên cứu, sản xuất, kinh doanh, trong đó trước hết là hệ thống thông tin kinh tế đầy đủ, kịp thời để nhận dạng sớm những “bong bóng kinh tế”. Chủ động xây dựng một lộ trình thực hiện hệ thống chỉ tiêu thống kê theo thông lệ quốc tế cho cả giai đoạn 2011 - 2020, bảo đảm thực hiện mục tiêu “phù hợp với tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế”. Có chế tài nghiêm khắc đối với hành động đưa, phát tán thông tin không trung thực, thiếu chính xác gây ảnh hưởng xấu tới phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có đủ phẩm chất, năng lực; chú trọng đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng phục vụ tốt nhất cho người dân và doanh nghiệp; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm.
Giai đoạn 2011 - 2020 nước ta nằm trọn trong thời kỳ “dân số vàng”, do đó cần đổi mới căn bản công tác đào tạo nhân lực và chính sách sử dụng nhân lực. Các giải pháp chính sách cụ thể để phát triển nguồn nhân lực có phẩm chất tốt, kỹ năng chuyên môn cao gồm:
- Đẩy mạnh cải cách giáo dục theo hướng nâng cao dân trí và đào tạo, dạy nghề gắn với nhu cầu của xã hội và doanh nghiệp; chủ động dự báo cơ cấu lao động để có hướng đào tạo đội ngũ lao động có thể đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Tiếp tục đổi mới chế độ tuyển chọn, sử dụng nhân lực theo hướng “phải tạo cơ hội bình đẳng trong việc tuyển dụng, đề bạt mới phát huy tối ưu khả năng của đất nước và mới tạo khí thế hăng say làm việc”.
- Nghiên cứu cải cách chế độ tiền lương, tạo cơ sở cho việc định hướng đào tạo và sử dụng nhân lực, đặc biệt là nhân tài, trong đó phải bảo đảm công chức có thể sống bằng lương như công chức ở các nước trong khu vực.
Thứ tư, xây dựng cơ chế, chính sách nhằm phát triển khoa học và công nghệ phục vụ phát triển kinh tế, với các nội dung chính sau:
- Đầu tư kết cấu hạ tầng thiết yếu cho hoạt động nghiên cứu và triển khai; hoàn thiện hơn nữa hệ thống thông tin khoa học - công nghệ quốc gia hiện có ngang với trình độ của các nước trong khu vực và thế giới.
- Tạo cơ chế khuyến khích nhiều thành phần tham gia nghiên cứu khoa học, nhất là khu vực doanh nghiệp; gắn khoa học với thực tiễn và hoạt động sản xuất, kinh doanh.
- Sớm tạo các yếu tố cơ bản để hình thành và vận hành thị trường khoa học - công nghệ. Đẩy mạnh thực hiện cơ chế “khoán” trong khoa học - công nghệ (Nghị định số 115); tạo cầu nối để cung và cầu về khoa học - công nghệ gặp nhau, làm cho khoa học - công nghệ có thể phục vụ hiệu quả việc phát triển kinh tế.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học đủ mạnh, bảo đảm cho nền kinh tế có cơ sở nội sinh về khoa học - công nghệ vững mạnh.
Thứ năm, tiếp tục đầu tư, hoàn thiện cơ bản hệ thống kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ, hiện đại gắn với phát triển mạnh các vùng có tiềm năng một cách hài hòa trong tổng thể chung của cả nước.
Việc phát triển kết cấu hạ tầng cần tuân thủ các nguyên tắc chủ yếu sau:
- Phát triển hạ tầng phải được thực hiện theo quy hoạch chung của cả nước cũng như các vùng kinh tế trọng điểm; sớm xây dựng, phê duyệt và triển khai thực hiện quy hoạch hệ thống hạ tầng kinh tế, kỹ thuật theo hướng phát triển. Đối với một số lĩnh vực quy hoạch lớn, chuyên ngành có thể thuê chuyên gia và tư vấn quốc tế để bảo đảm tính khoa học, khách quan và hội nhập kinh tế quốc tế. Đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải bảo đảm tính hiệu quả tổng thể và tầm nhìn chiến lược có tính đến yếu tố vùng trong tổng thể cả nước.
- Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật phải bảo đảm tính đồng bộ, hoàn chỉnh về công nghệ, kỹ thuật, năng lực quản lý, vận hành... của hệ thống kết cấu hạ tầng. Giai đoạn đến năm 2020, nên tập trung ưu tiên xây dựng một số công trình giao thông lớn, các đầu mối giao lưu quốc tế (sân bay, thương cảng, đường cao tốc, đường sắt), các khu đô thị hiện đại, các công trình cung cấp dịch vụ viễn thông, điện, nước...
Các giải pháp chính sách cụ thể gồm:
- Mở rộng các hình thức huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Mặt khác, cần mở rộng các hình thức huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, như các dạng BOT (xây dựng - vận hành - chuyển giao); BCC (Hợp đồng hợp tác kinh doanh); BTO (xây dựng - chuyển giao - vận hành); BT (xây dựng - chuyển giao); PPP (hợp tác công tư).
- Tạo cơ chế, chính sách phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng chung của cả nước. Bên cạnh đó, phát triển các vùng một cách hài hòa không có nghĩa là phát triển dàn đều, đặc biệt là xét ở góc độ đầu tư phát triển. Vì ở những thời điểm nhất định, với những nguồn lực có hạn của xã hội, một mặt phải có sự tập trung vào những nơi có khả năng mang lại hiệu suất cao nhất; mặt khác, lại không được bỏ rơi những nơi khó khăn, điều kiện phát triển còn hạn chế.
Thứ sáu, phát triển kinh tế đi đôi với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, bảo đảm an sinh và đời sống của nhân dân ngày càng tốt hơn. Bên cạnh việc giải quyết nhiệm vụ phát triển kinh tế, cần quan tâm tới bảo đảm an sinh xã hội nhằm phát triển bền vững, ổn định, trong đó tập trung vào một số vấn đề sau:
- Xây dựng chính sách tạo việc làm và chống thất nghiệp; thực thi những quy định ràng buộc các đơn vị sử dụng đất nông nghiệp chuyển đổi sang đất đô thị và công nghiệp phải giải quyết việc làm hoặc chuyển đổi nghề cho những người nông dân thuộc diện thu hồi đất.
- Kiên trì thực hiện mục tiêu chống đói nghèo và tái đói nghèo. Giải pháp chống đói nghèo và tái đói nghèo căn bản, lâu dài vẫn là hỗ trợ giáo dục và đào tạo nghề cho người nghèo; tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích tăng cường đầu tư và sử dụng lao động là người nghèo.
- Thực hiện các chính sách bảo đảm an ninh, an toàn cuộc sống; phòng, chống và hạn chế thiệt hại do các rủi ro về thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu; ngăn ngừa và chủ động giảm thiểu các loại tội phạm; tích cực phòng, chống tham nhũng; giải quyết tốt vấn đề dân tộc và tôn giáo.
Thứ bảy, tăng cường công tác bảo vệ môi trường, hướng tới mô hình phát triển xanh. Bảo vệ môi trường sinh thái đòi hỏi thực hiện nghiêm các quy định pháp luật về bảo vệ môi trường, trong đó đặc biệt chú ý bảo đảm quy trình phê duyệt và giám sát việc thực hiện các dự án đầu tư. Quy định rõ trách nhiệm của các bên liên quan đến việc phê duyệt, thẩm định dự án, quản lý môi trường và của các nhà đầu tư kinh doanh, nhất là những dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Khuyến khích nghiên cứu khoa học và áp dụng vào sản xuất các công nghệ không gây ô nhiễm môi trường và hình thành các ngành, nghề kinh tế mới thân thiện với môi trường. Nghiên cứu áp dụng chỉ tiêu thống kê GDP xanh, hạch toán tăng trưởng có tính tới yếu tố môi trường.
Thứ tám, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó giải pháp cơ bản, lâu dài về chủ động hội nhập kinh tế quốc tế cần được triển khai ở các nội dung chủ yếu sau:
- Xây dựng các cơ chế, chính sách quản lý các hoạt động kinh tế, trong đó chủ động thực hiện theo chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
- Để phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế, cần lấy việc du nhập tri thức, công nghệ, kỹ thuật, thiết bị, phương thức kinh doanh hiện đại của thế giới làm căn cứ trực tiếp của việc lựa chọn đối tác để có hướng ưu tiên tiếp cận; sớm xây dựng các giải pháp tăng cường xuất khẩu để nhập khẩu tri thức và công nghệ - kỹ thuật nhằm tăng nhanh tốc độ hiện đại hóa nền kinh tế hướng tới đuổi kịp các nước trung bình và tiến tới là các nước tiên tiến trong khu vực và trên thế giới.
- Xác định rõ chiến lược thị trường (đối tác) và dành sự nỗ lực cho việc giành và giữ thị phần ở các thị trường đó. Hướng thị trường ưu tiên là những thị trường hàng hóa, dịch vụ của Việt Nam gắn với các trung tâm kinh tế và khoa học công nghệ tiên tiến trên thế giới, như Mỹ, Nhật Bản và EU, Trung Quốc, Hàn Quốc, Trung Đông...
Thứ chín, bảo đảm quốc phòng, an ninh đủ mạnh để bảo vệ đất nước, duy trì ổn định chính trị để phát triển kinh tế. Tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp. Hợp tác và đấu tranh đan xen phức tạp; mâu thuẫn và xung đột luôn có thể xảy ra. Các thế lực thù địch luôn tìm cách chống phá hòng lật đổ chế độ, phá thế ổn định phát triển của đất nước... Do đó chúng ta cần xây dựng quân đội đủ mạnh để bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ. Đồng thời, cần bảo đảm và duy trì trật tự trị an xã hội nhằm giữ vững ổn định chính trị, tạo thế và lực
để phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, an ninh.
Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, cũng như thực tiễn Việt Nam đã chứng minh rằng, khả năng phát triển nhanh và bền vững nền kinh tế của một quốc gia, kể cả những nền kinh tế vốn rất nghèo tài nguyên thiên nhiên là hoàn toàn có thể. Việt Nam đang trong giai đoạn có khả năng phát triển nhanh và bền vững, do hội được các điều kiện thuận lợi khách quan và chủ quan, trong nước cũng như quốc tế. Để thực hiện thành công Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, chúng ta cần phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc và hệ thống chính trị, tận dung thời cơ, vượt qua thách thức, triển khai đồng bộ nhiều nhóm giải pháp, trong đó có những giải pháp như đã đề xuất trên đây./.
---------------------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.103
Một số kinh nghiệm về công tác trí thức của Trung Quốc  (31/05/2012)
Dĩ hoà vi quý  (31/05/2012)
Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về triển khai Quy hoạch phát triển nhân lực, đào tạo theo nhu cầu xã hội  (30/05/2012)
Chủ tịch nước gặp gỡ đoàn đại biểu cựu tù chính trị  (30/05/2012)
Các nước SNG đã ký hàng chục văn kiện hợp tác  (30/05/2012)
- Tỉnh Quảng Nam tích cực chuẩn bị tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ 2025 - 2030
- Thúc đẩy quá trình cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
- Suy ngẫm những điều đặc biệt về cuộc đời, sự nghiệp của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
- Phát triển du lịch cộng đồng, góp phần giữ vững thương hiệu “Nha Trang - điểm đến an toàn, văn minh, thân thiện”
- Chính sách, pháp luật của Việt Nam về bảo vệ chủ quyền biển, đảo và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch về vấn đề biển, đảo
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên