Nhiều chính sách phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long: Đối mặt với nhiều thách thức
Đồng bằng sông Cửu Long đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó nghiêm trọng nhất là thách thức do ảnh hưởng của biến đổi khí hậu như nước biển dâng, tình trạng xâm nhập mặn, lở đất, lũ thất thường,…
Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm 13 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, có tổng diện tích 3,94 triệu ha và dân số 17,5 triệu người, chiếm 12% diện tích tự nhiên và 20% dân số cả nước, có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của cả nước. Đây là vựa lúa lớn nhất của cả nước, đóng góp quan trọng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia và xuất khẩu. Đến nay, đồng bằng sông Cửu Long đã "đóng góp 54% sản lượng lúa, 70% lượng thủy sản nuôi trồng, 36,5% lượng trái cây, cung cấp 90% sản lượng lúa gạo xuất khẩu và 65% sản lượng thủy sản xuất khẩu của cả nước". Nhiều mặt hàng nông sản của đồng bằng sông Cửu Long đã có mặt và được ưa chuộng tại nhiều nơi trên thế giới, như xoài, chôm chôm, vú sữa,...
Trong quá trình phát triển, bên cạnh những mặt tích cực, đồng bằng sông Cửu Long đã và đang phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó nghiêm trọng nhất là thách thức do biến đổi khí hậu: nước biển dâng, tình trạng xâm nhập mặn, lở đất, lũ thất thường,… Đồng bằng sông Cửu Long đã, đang và sẽ đối mặt với nhiều tác động nghiêm trọng do biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Những thách thức chủ yếu bao gồm: gia tăng nhanh chóng các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội và sự hạn chế của tư duy, mô hình phát triển, của công tác quy hoạch, kế hoạch, hạn chế của những cơ chế, chính sách hiện nay đối với đồng bằng sông Cửu Long và thách thức do biến đổi khí hậu, nước biển dâng cũng như các hoạt động trên thượng nguồn sông Mê Công ngoài biên giới nước ta.
Thách thức tiếp theo từ những bất cập, hạn chế trong quy hoạch phát triển vùng cũng như sự lỏng lẻo trong thực hiện quy hoạch phát triển vùng. Do thiếu sự phối hợp, liên kết chặt chẽ giữa các địa phương cũng như tính “cục bộ” trong phát triển, dẫn đến tình trạng quy hoạch tổng thể vùng không được bảo đảm; đầu tư dàn trải, sự chồng chéo, cạnh tranh nhau trong cơ cấu phát triển ngành nghề của mỗi địa phương làm cho nguồn lực bị phân tán, tiềm năng của cả vùng không được phát huy.
Những bất cập nêu trên đang và sẽ đe dọa quá trình phát triển của vùng đồng bằng sông Cửu Long, sinh kế và đời sống người dân trong vùng nói riêng và cả nước nói chung, qua đó tác động tới khu vực và quốc tế, đặc biệt là vấn đề an ninh lương thực. Ưu thế tự nhiên cho phát triển trước đây và hiện nay của đồng bằng sông Cửu Long sẽ thay đổi theo hướng suy giảm tài nguyên nước và phù sa; sự gia tăng của nước mặn, nước lợ; sụt lún đất và nước biển dâng, sẽ tác động lớn tới tài nguyên đất, cơ cấu sử dụng đất, các hệ sinh thái và môi trường, làm thay đổi căn bản mô hình sản xuất, tập quán sinh hoạt, sinh kế và đời sống của người dân trong vùng.
Là vùng đất có nhiều tiềm năng, lợi thế song hiện cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức, trong đó lớn nhất là nhóm thách thức từ nội tại, nhóm thách thức mang tính khu vực và nhóm thách thức mang tính toàn cầu do biến đổi khí hậu, nước biển dâng, hạn hán gia tăng, các hiện tượng khí hậu, thời tiết cực đoan,…, do đó, định hình chuyển đổi mô hình phát triển đồng bằng sông Cửu Long theo hướng bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu có ý nghĩa quan trọng, được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, chỉ đạo. Rõ ràng, cần phải thay đổi tư duy và mô hình phát triển đồng bằng sông Cửu Long để vượt qua thách thức, biến đồng bằng sông Cửu Long thành một vùng phát triển thịnh vượng, đóng góp ngày càng nhiều hơn cho tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long
Để vượt qua thách thức, biến đồng bằng sông Cửu Long thành một vùng phát triển thịnh vượng, ngày 17-11-2017, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu.
Nghị quyết đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2050, đồng bằng sông Cửu Long trở thành vùng có trình độ phát triển khá so với cả nước, có trình độ tổ chức xã hội tiên tiến, GDP bình quân đầu người đạt gần 10.000 USD/năm; tỷ trọng nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao chiếm trên 80%; độ che phủ rừng đạt trên 5% (so với 4,3% hiện nay), các hệ sinh thái tự nhiên quan trọng được bảo tồn.
Để thực hiện mục tiêu Nghị quyết đề ra, cần có sự đổi mới mạnh mẽ trong tư duy và cách tiếp cận theo hướng mới, hiện đại, phù hợp với thực tiễn, lấy tri thức khoa học công nghệ làm nền tảng, kinh nghiệm thực tiễn trong nước và quốc tế là sức mạnh trong các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu, phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long. Các giải pháp đưa ra cần có tính đột phá, khả thi cao, mang tính kết nối liên vùng và nội vùng, có sự thống nhất, kế thừa các chủ trương, chính sách, các giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu tại vùng đồng bằng sông Cửu Long đã được đề ra trong thời gian vừa qua nhằm chuyển đổi mô hình phát triển của cả vùng. Việc chuyển đổi mô hình phát triển phải được xem xét trong tổng thể chung, phải lấy tài nguyên nước là yếu tố cốt lõi, trung tâm, làm cơ sở xuyên suốt cho việc hoạch định chiến lược, chính sách, quy hoạch phát triển vùng và cơ sở cho sự chuyển đổi, bảo đảm hài hòa giữa đất, nước, sinh thái và môi trường. Phải dựa trên hệ sinh thái, phù hợp với quy luật tự nhiên; phải kết hợp giữa công nghệ tiên tiến, hiện đại với tri thức, kinh nghiệm truyền thống bản địa. Cần có tầm nhìn dài hạn, ưu tiên cho thích ứng với biến đổi khí hậu nhưng cũng phải tận dụng các cơ hội để phát triển kinh tế xanh, bảo vệ hệ sinh thái tự nhiên. Phải bảo đảm tính ổn định, sinh kế của người dân; phải lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm, Nhà nước đóng vai trò định hướng, dẫn dắt...
Nhiều cơ chế, chính sách phát triển kinh tế xã hội đồng bằng sông Cửu Long
Thời gian tới, đồng bằng sông Cửu Long nhận được nhiều cơ chế, chính sách phát triển kinh tế xã hội. Đây là thông tin trên được Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nêu tại văn bản trả lời chất vấn của Đại biểu Quốc hội về chính sách ưu tiên thúc đẩy sự phát triển đồng bằng sông Cửu Long trong thời gian tới.
Là vùng kinh tế trọng điểm, có vị trí đặc biệt quan trọng về nhiều mặt đối với cả nước, tuy nhiên, thời gian qua, đồng bằng sông Cửu Long đang đối mặt với nhiều thách thức nghiêm trọng, nhất là: Tác động của biến đổi khí hậu gây ra thiên tai bão, lốc xuất hiện thường xuyên hơn cả về tần suất và mức độ; việc phụ thuộc vào các quốc gia thượng nguồn sông Mê Công trong việc quản lý khai thác tài nguyên nước, lượng nước và phù sa trên sông Mê Công bị suy giảm dẫn tới tình trạng khô hạn kéo dài, triều cường, xâm nhập mặn vào sâu; việc quản lý sử dụng tài nguyên thiếu bền vững làm cạn kiệt tài nguyên rừng, thiếu rừng phòng hộ che chắn nên lũ từ thượng nguồn đổ về, càn quét mạnh, khai thác cát sỏi lòng sông thiếu bền vững làm thay đổi dòng chảy, liên kết đất ven sông, suối thiếu ổn định, tác động trực tiếp vào các đoạn đê, kè sông, suối gây sạt lở nhiều và nghiêm trọng hơn việc chuyển đổi các đai rừng ven biển để phát triển du lịch, nuôi trồng thủy sản tràn lan, thiếu quy hoạch dẫn đến thiếu một lớp "đê mềm" có tác dụng giảm tác động của áp thấp nhiệt đới, bão, sóng biển cho lớp "đê cứng" bên trong cũng là nguyên nhân gây ra sạt lở bờ biển, mất đất sản xuất ven biển, xâm nhập mặn gia tăng...
Những thách thức này gây ảnh hưởng lớn đến đời sống và sản xuất của nhân dân trong vùng, đe dọa đến các mục tiêu phát triển bền vững đối với khu vực đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và cả nước nói chung. Nhận thức được vấn đề này, Chính phủ đã tổ chức Hội nghị của Thủ tướng Chính phủ về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu tại thành phố Cần Thơ và ban hành Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17-11-2017 về phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu với các mục tiêu, tầm nhìn dài hạn và các giải pháp căn cơ, bài bản nhằm đưa đồng bằng sông Cửu Long phát triển bền vững, an toàn, thịnh vượng.
Nhằm giải quyết các vấn đề của đồng bằng sông Cửu Long căn cơ, bài bản, kết hợp giữa các biện pháp trước mắt và các giải pháp lâu dài, tại Công văn số 13449/VPCP-NN ngày 18-12-2017, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì xây dựng Chương trình hành động tổng thể thực hiện Nghị quyết, dự kiến sẽ ban hành vào Quý III năm 2018.
Đồng thời, Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo các bộ, cơ quan liên quan, UBND các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh căn cứ nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết chủ động ban hành Kế hoạch chi tiết, tập trung triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra; chủ động bố trí kinh phí để thực hiện; thường xuyên chỉ đạo, kiểm tra, theo dõi và đôn đốc việc triển khai thực hiện để đưa Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống, thúc đẩy phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long.
Trong bối cảnh nguồn lực còn hạn chế, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo đẩy mạnh xã hội hóa nguồn lực, đặc biệt là nguồn lực huy động từ doanh nghiệp xây dựng các tuyến đê mềm để mở rộng đất đai, kết hợp phát triển kinh tế. Về cơ chế, chính sách, Thủ tướng Chính phủ cho phép cấp ủy và chính quyền địa phương thống nhất quyết định phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương, bảo đảm đúng quy định trên tinh thần có lợi cho Nhà nước, nhân dân và nhà đầu tư.
Các bộ, ngành như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường... và các tỉnh, thành phố vùng đồng bằng sông Cửu Long đã chủ động triển khai một số nội dung của Nghị quyết số 120/NQ-CP trong chương trình công tác của mình.
Về nội dung xử lý sạt lở bờ sông, bờ biển, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 795/QĐ-TTg ngày 29-6-2018 hỗ trợ vốn cho các địa phương thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long 1.500 tỷ đồng xử lý sạt lở cấp bách bờ sông, bờ biển từ nguồn dự phòng ngân sách trung ương năm 2018. Hiện nay Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang chủ trì phối hợp với các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính phân bổ 1.000 tỷ đồng từ nguồn dự phòng kế hoạch đầu tư công trung hạn 2016 - 2020 theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Thông báo số 185/TB-VPCP ngày 18-5-2018 và Công văn số 6188/VPCP-KTTH ngày 02-7-2018; và 36 triệu USD vốn ODA từ dự án WB9 và dự án GMS1 để lập Quỹ chống biến đổi khí hậu vùng đồng bằng sông Cửu Long...
Một số ưu tiên chính trong việc triển khai Nghị quyết số 120/NQ-CP
Chính phủ xác định một số ưu tiên chính trong triển khai thực hiện Nghị quyết số 120/NQ-CP, bao gồm:
- Nhóm cơ chế, chính sách phát triển kinh tế xã hội gồm: Xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Xây dựng Chương trình tổng thể phát triển nông nghiệp bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với biến đổi khí hậu gắn với cơ cấu lại ngành nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; Xây dựng cơ chế huy động nguồn lực xã hội, khuyến khích các doanh nghiệp, người dân, các tổ chức trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát triển đồng bằng sông Cửu Long; sớm thành lập Quỹ phát triển bền vững vùng đồng bằng sông Cửu Long; Hoàn thiện chính sách về khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp nông thôn, liên kết sản xuất và tiêu thụ nông sản; Xây dụng chính sách chuyển đổi nghề nghiệp, tạo việc làm cho người lao động nông nghiệp; phát triển các ngành công nghiệp, dịch vụ hỗ trợ nông nghiệp.
- Nhóm nhiệm vụ ứng phó biến đổi khí hậu, phòng tránh thiên tai, bảo vệ môi trường gồm: Bố trí vốn tập trung đầu tư và hoàn thành đưa vào khai thác các tuyến đường bộ đã được xác định trong quy hoạch mang tính chất vùng và liên vùng; tăng cường giao thông đường thủy; Về các công trình thủy lợi: Rà soát quy hoạch thủy lợi phòng chống thiên tai phù hợp với bối cảnh mới, chủ động ứng phó với kịch bản bất lợi nhất, trong đó ưu tiên các công trình chống, khắc phục sạt lở bờ sông, bờ biển, tiếp tục xây dựng, nâng cấp hệ thống thủy lợi phục vụ tưới tiêu, phòng chống lũ; kiểm soát ngập mặn; quản lý khai thác nước ngầm; nâng cao hiệu quả sử dụng nước cho nông nghiệp trong mùa khô.
- Về các công trình thích ứng với biến đổi khí hậu: Tiếp tục xây dựng, nâng cấp hệ thống đê biển, đê bao và các dự án bảo vệ môi trường đã có vốn đầu tư từ nguồn SPRCC; bố trí, sắp xếp lại dân cư ven sông, kênh, rạch kết hợp với xây dựng nông thôn mới; Hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, công nghệ sinh học trong nông nghiệp gắn liền với cơ cấu lại ngành nông nghiệp và thực hiện xây dựng nông thôn mới; ưu tiên đẩy mạnh nghiên cứu, chọn tạo, phát triển các giống cây trồng, vật nuôi và giống thủy sản có tiềm năng, lợi thế của vùng đồng bằng sông Cửu Long; nâng cao chất lượng giống, nâng tầm nền nông nghiệp đối với ba nhóm sản phẩm chủ lực: thủy sản - cây ăn quả - lúa gạo của vùng; Tiếp tục tập trung phát triển một số cảng biển, cảng hành khách và cảng dịch vụ tổng hợp.../.
Thúc đẩy quan hệ Đối tác chiến lược Việt Nam - Ô-xtrây-li-a  (23/07/2018)
Tổng Công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí đặt mục tiêu hoàn thành sản lượng khai thác 4,06 triệu tấn quy dầu  (23/07/2018)
Thông tin chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ  (23/07/2018)
Sự kiện trong nước nổi bật tuần qua (từ ngày 16 đến ngày 22-7-2018)  (22/07/2018)
Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng làm việc tại Gia Lai  (22/07/2018)
Đoàn cán bộ cấp cao Quân đội Việt Nam thăm Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa  (22/07/2018)
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảo đảm an ninh kinh tế, góp phần bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh hội nhập quốc tế
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Đắk Nông: “Điểm sáng” trong phát triển du lịch thời kỳ hội nhập quốc tế
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên