Một số giải pháp tài chính phát triển thị trường khoa học - công nghệ

TS. Nguyễn Minh Phong TS. Nguyễn Thị Kim Nhã
23:21, ngày 30-08-2017

TCCSĐT - Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, không thể phát triển hiệu quả nền khoa học - công nghệ quốc gia nếu không tạo lập và vận hành có hiệu quả thị trường khoa học - công nghệ. 

Thực tế cho thấy, không thể có nền khoa học - công nghệ phát triển hiện đại khi các nguồn vốn đầu tư cho khoa học - công nghệ quá nhỏ bé, thiếu đa dạng và phân bổ dàn trải, thiếu hiệu quả, thông qua mệnh lệnh hành chính, bị chi phối bởi một loạt yếu tố cảm tính, duy ý chí hoặc vì những quyền lợi cục bộ, địa phương, ngắn hạn và tình trạng tham nhũng. Chế độ quản lý hành chính phiền phức, cứng nhắc theo năm tài chính ngân sách, cũng như do các dự toán, định mức chi tiêu hết sức lạc hậu và bất cập so với thực tiễn đặc thù khoa học - công nghệ là nguyên nhân hàng đầu gây ra lãng phí (thậm chí xúc phạm lòng tự trọng của giới khoa học), đặc biệt là những tình trạng “xin - cho”, “hợp lý hóa chứng từ”, ghi một đằng - chi một nẻo, hay sự tắc trách không quan tâm đến hiệu quả khoa học, kinh tế và xã hội của nghiên cứu khoa học. Hơn nữa, cơ chế quản lý tài chính đó gây cản trở việc huy động các nguồn vốn khoa học - công nghệ ngoài ngân sách nhà nước và kịp thời xử lý những vấn đề khoa học bột phát hoặc phát sinh không báo trước, không thể kế hoạch hóa từ đầu năm (như dịch cúm gà, viêm đường hô hấp cấp…) trong bối cảnh quốc tế và trong nước ngày càng đầy tính cạnh tranh và những biến động bất thường.

Việc hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ ở nước ta là một quá trình lâu dài, tổng hợp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố và đòi hỏi có sự tham gia của nhiều cấp, ngành, đơn vị hữu quan, cũng như đòi hỏi triển khai những giải pháp đồng bộ, nhất quán và mạnh mẽ. Từ thực tiễn nước ta và kinh nghiệm quốc tế có thể nhận thấy vai trò hết sức quan trọng của “bàn tay tài chính” trong quá trình xây dựng và phát triển thị trường khoa học - công nghệ, thể hiện tập trung ở các khía cạnh nội dung và giải pháp cần thiết sau:

Chính sách huy động và sử dụng vốn đầu tư

Chính sách đầu tư cho khoa học - công nghệ phải được thiết kế sao cho tổng đầu tư xã hội cho mục tiêu phát triển khoa học - công nghệ duy trì ở mức đủ lớn (thông thường ở các nước phát triển trên thế giới chiếm trên 2% GDP và ở các doanh nghiệp lớn chiếm trên 15% tổng thu nhập hằng năm) và không ngừng tăng lên. Hơn nữa, dòng đầu tư này phải là “hợp lưu” của nhiều nguồn vốn đa dạng: ngân sách nhà nước, vốn của doanh nghiệp, vốn từ các quỹ ngoài ngân sách nhà nước (trong đó có quỹ đầu tư rủi ro) và các nguồn tín dụng khác trong và ngoài nước. Việc sử dụng hợp lý các khoản chi ngân sách nhà nước có vai trò đặc biệt to lớn, tạo “cú hích ban đầu” để hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ, trong đó ưu tiên cho những nội dung chi: đào tạo đội ngũ các nhà khoa học, chuyên gia, công nhân kỹ thuật có chất lượng và trình độ chuyên nghiệp cao; xây dựng, triển khai các đề tài, dự án nghiên cứu và ứng dụng triển khai khoa học - công nghệ mà sản phẩm, kết quả của chúng sẽ được thương mại hóa và được giao dịch rộng rãi cả trên thị trường trong nước và ngoài nước; chi ngân sách nhà nước dùng cho mua sắm các kết quả, thành tựu khoa học - công nghệ, dịch vụ và trang thiết bị máy móc dùng trong nghiên cứu, ứng dụng và sản xuất trong nước, ưu tiên từ các doanh nghiệp, nhà sản xuất và cung cấp trong nước; xây dựng và duy trì hoạt động các trung tâm, văn phòng giao dịch, “chợ” đầu mối và thị trường chứng khoán chuyên ngành cho các sản phẩm, hàng hóa và dịch vụ khoa học - công nghệ...

Ngoài nguồn ngân sách nhà nước, cần quan tâm đúng mức để các doanh nghiệp, cơ quan, cá nhân quan tâm và có nhu cầu, năng lực hoạt động khoa học - công nghệ được tiếp cận thuận lợi đến các nguồn tín dụng ưu đãi của Nhà nước, các ngân hàng thương mại. Áp dụng rộng rãi và khuyến khích các hình thức đầu tư nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học - công nghệ qua các kênh có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Quỹ đầu tư rủi ro, thuê mua tài chính, thanh toán bồi hoàn,... Khuyến khích các ngân hàng thương mại, các quỹ đầu tư tài chính trở thành người đồng tài trợ hoặc trực tiếp đầu tư - kinh doanh cùng doanh nghiệp cho các dự án nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ có triển vọng và áp dụng “thương mại hóa” rộng rãi trong nước và quốc tế.

Chính sách thuế, phí, tiền lương và cung cấp dịch vụ tài chính khác

Áp dụng các ưu đãi, miễn, giảm thuế, phí và lãi suất tối đa cho các doanh nghiệp, cơ sở tiến hành các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng triển khai khoa học - công nghệ vào thực tiễn, nhất là đối với các sản phẩm chế thử, sản phẩm có hàm lượng khoa học - công nghệ cao, các sản phẩm sản xuất từ việc ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học - công nghệ. Điều chỉnh thuế suất linh hoạt đối với các giao dịch xuất - nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu phục vụ nghiên cứu ứng dụng triển khai và bản thân các phát minh, sáng kiến cải tiến kỹ thuật, các sản phẩm khoa học - công nghệ theo hướng khuyến khích đẩy mạnh, các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng triển khai, nâng cao tỷ lệ “nội địa hóa” và tiêu thụ các sản phẩm, dịch vụ khoa học - công nghệ sản xuất trong nước. Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư nghiên cứu và mở rộng áp dụng khoa học - công nghệ thông qua việc cấp tín dụng ưu đãi, miễn giảm các thuế loại (VAT, thu nhập doanh nghiệp, thu nhập cá nhân, thuế và tiền thuế sử dụng đất,... ) và tăng mức khấu hao, tự chủ quyết định mức lương, thưởng cho cán bộ hoạt động khoa học - công nghệ.

Cung cấp rộng rãi, thuận tiện và bảo đảm chất lượng các dịch vụ tài chính hỗ trợ các giao dịch trên thị trường khoa học - công nghệ, kiểm toán, kế toán, tư vấn thuế và định giá, tư vấn chuyển giao khoa học - công nghệ, bảo hiểm, thanh toán và chuyển tiền. Đặc biệt, hết sức coi trọng việc điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống chế độ định mức chi tiêu và quản lý tài chính đối với khoa học theo hướng mềm dẻo hơn, phù hợp với yêu cầu thực tế và khả năng tài chính của đơn vị, địa phương, cũng như trao nhiều quyền tự chủ hơn cho đơn vị và cá nhân chủ trì thực hiện các hoạt động nghiên cứu và ứng dụng khoa học - công nghệ.

Chính sách bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, quyền tác giả và thông tin khoa học - công nghệ

Cần tạo lập và thực thi có hiệu lực trên thực tế các quy định pháp lý và chính sách liên quan đến bảo hộ sở hữu trí tuệ, sở hữu công nghiệp, quyền tác giả, các quy định và thể chế cần thiết phục vụ việc mua bán hàng hóa và dịch vụ khoa học - công nghệ, với các chế tài tài chính thích đáng và hiệu lực cao cho mục tiêu này.

Đối với các đề tài, dự án, phát minh và sáng kiến khoa học - công nghệ của doanh nghiệp và cá nhân ngoài khu vực kinh tế nhà nước, cần, một mặt, khuyến khích đăng ký và bảo hộ, khen thưởng bình đẳng chúng như đối với các đối tượng thuộc các khu vực kinh tế nhà nước; mặt khác, có nguồn kinh phí ngân sách nhà nước giành riêng thích hợp để hỗ trợ việc đăng ký, công nhận quyền tác giả, hỗ trợ một phần chi phí nghiên cứu và ứng dụng triển khai, tổ chức tiếp thị, quảng cáo và môi giới bán chúng trên thị trường khoa học - công nghệ trong nước và quốc tế. Với những phát minh, sáng kiến đổi mới khoa học - công nghệ có giá trị thì có thể dùng ngân sách nhà nước để “mua đứt” bản quyền rồi tổ chức áp dụng nhân rộng chúng trên phạm vi toàn quốc.

Cần nhấn mạnh rằng để làm sống động thị trường khoa học - công nghệ trong nước thì những hỗ trợ tài chính từ phía nhà nước cho việc tổ chức mạng lưới thông tin khoa học - công nghệ và các trung tâm giao dịch - chợ cũng như các câu lạc bộ, hiệp hội, các cuộc hội nghị, gặp gỡ định kỳ và đột xuất về khoa học - công nghệ là rất quan trọng. Trong đó, cần quan tâm lập những trang web chuyên ngành và tổng hợp, những ấn phẩm đa dạng thuộc các cấp, ngành được phát hành rộng rãi đến mọi đối tượng cập nhật và truyền tải những thông tin nhu cầu, vấn đề và khả năng, cơ hội hợp tác, trao đổi... trực tiếp và gián tiếp liên quan đến nghiên cứu và ứng dụng triển khai khoa học - công nghệ của tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, cấp độ, đơn vị và cá nhân trong và ngoài nước.

Chính sách khai thác và thương mại hóa các kết quả nghiên cứu khoa học

Đến nay cả ở cấp toàn quốc cũng như từng địa phương, cả ở tầm vĩ mô và dài hạn, cũng như tầm vi mô và ngắn hạn, việc khai thác các kết quả nghiên cứu khoa học dùng vốn ngân sách nhà nước vẫn chưa được coi trọng đúng mức. Cần có những thay đổi toàn diện cả về nhận thức, cơ sở pháp lý và phương thức tổ chức thực hiện các hoạt động nghiên cứu khoa học, trong đó có việc quan tâm đúng mức và thực hiện hiệu quả cơ chế tài chính để khai thác ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học các đề tài sử dụng ngân sách nhà nước.

Về tổng thể và nguyên tắc, để có thể khai thác hiệu quả kết quả nghiên cứu khoa học dùng ngân sách nhà nước, trước hết cần có kinh phí giành cho các hoạt động này, cũng như tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho sự nắm bắt thông tin và triển khai các công việc liên quan đến khai thác ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học. Theo tinh thần đó, cơ chế quản lý tài chính để khai thác các kết quả nghiên cứu khoa học dùng vốn ngân sách nhà nước cần được đổi mới, điều chỉnh theo những nội dung chủ yếu sau:

Một là, tạo nguồn tài chính tập trung phục vụ khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học.

Trước mắt, trong dự toán kế hoạch ngân sách hằng năm cho hoạt động nghiên cứu khoa học của cấp thành phố (và cả Trung ương) cần có khoản mục kinh phí giành riêng cho nội dung hỗ trợ khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học. Tùy theo nhu cầu và điều kiện thực tế, khoản mục này có thể chiếm từ 20% - 30% tổng kinh phí cho khoa học - công nghệ hằng năm. Về lâu dài, cần chuyển khoản mục ngân sách này vào Quỹ hỗ trợ phát triển khoa học - công nghệ để thống nhất quản lý theo chế độ Quỹ.

Ngoài nguồn ngân sách nhà nước hằng năm bổ sung vào khoản mục hỗ trợ khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu, vốn giành cho mục tiêu này còn được gia tăng nhanh hơn bởi các khoản thu lợi nhuận hoặc phí từ các dịch vụ phát sinh và phát triển nhờ việc khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu. Để quản lý được nguồn thu này, cần xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp lý, trước hết là các hợp đồng tài trợ, tư vấn cho các hoạt động khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu. Tùy từng tính chất và mục tiêu cụ thể, các hoạt động tài trợ, tư vấn này có thể thu hồi một phần, toàn bộ (chủ yếu là trong lĩnh vực khoa học công nghệ) hoặc thậm chí không thu hồi (nhất là đối với lĩnh vực khoa học xã hội - nhân văn).

Các dự án, đề tài được ưu tiên hỗ trợ tài chính từ nguồn Quỹ để khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu trước hết là:

- Các đề tài dùng ngân sách nhà nước, thuộc các lĩnh vực nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng có mục tiêu công ích, phục vụ các định hướng, mục tiêu phát triển và nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế - xã hội và khoa học - công nghệ chung.

- Các đề tài nghiên cứu - triển khai phục vụ đổi mới công nghệ, chế tạo sản phẩm mới, sản xuất thử nghiệm tạo bứt phá và thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

- Các hoạt động và dịch vụ góp phần làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và cải thiện môi trường đầu tư chung.

- Các đề tài dự án làm tăng năng lực khoa học - công nghệ chung.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý tài chính đối với nguồn kinh phí phục vụ khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu.

Nội dung hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước gồm: Hỗ trợ cho công tác in ấn, phổ biến, tuyên truyền và chuyển giao kết quả nghiên cứu; hỗ trợ triển khai ứng dụng các giải pháp, đề xuất; hỗ trợ đăng ký, quảng bá thương hiệu bản quyền phát minh sáng kiến; hỗ trợ các hoạt động xúc tiến thị trường, triển lãm, quảng cáo sản phẩm mới, sản phẩm chế thử; hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất, trung tâm thông tin, chợ khoa học - công nghệ, hệ thống dữ liệu, tài liệu và các dịch vụ hỗ trợ nghiên cứu - triển khai. Ngoài ra, tùy từng dự án cụ thể, có thể hỗ trợ đào tạo nhân lực hoặc hỗ trợ mua sắm máy móc, thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ việc khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu.

Phương thức hỗ trợ tài chính có thể gồm: hỗ trợ toàn bộ, một phần có thu hồi hoặc không thu hồi kinh phí đã cấp; hỗ trợ trực tiếp cho đơn vị được chỉ định tổ chức khai thác, ứng dụng kết quả nghiên cứu hoặc tổ chức đấu thầu để tìm người tổ chức khai thác, ứng dụng kết quả nghiên cứu theo phương án hiệu quả nhất. Ngoài ra, có thể sử dụng phương thức cho vay tín dụng, ưu đãi lãi suất, hỗ trợ lãi suất, thuê mua tài chính và cả đầu tư rủi ro cho các hoạt động khai thác, ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học.

Việc quản lý tài chính kinh phí hỗ trợ được tiến hành theo từng trường hợp cụ thể trên tinh thần giảm thiểu phần hỗ trợ bao cấp, tăng phần kinh phí tự có hoặc chủ động huy động của doanh nghiệp, đơn vị; gắn mức hỗ trợ ưu đãi với các mục tiêu và quy mô tác động công ích của kết quả khai thác, ứng dụng. Đồng thời, phù hợp với đặc điểm và tạo thuận lợi cao nhất cho các hoạt động khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học.

Các lợi ích thương mại thu được từ việc khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu cần được miễn tất cả các loại thuế và nghĩa vụ tài chính khác ít nhất trong 3 - 5 năm đầu kể từ khi áp dụng thành công và có lãi.

Ba là, hệ thống hóa và công khai hóa các danh mục đề tài, dự án có triển vọng khai thác, ứng dụng kết quả nghiên cứu.

Trong các đề tài nghiên cứu khoa học hằng năm dùng ngân sách nhà nước, cần yêu cầu cụ thể các ban chủ nhiệm đề tài xây dựng các kiến nghị đề xuất tốt, rõ ràng, khả thi. Có cơ chế khen thưởng tinh thần và vật chất xứng đáng cho các đề tài loại này. Khi nghiệm thu đề tài, đề nghị hội đồng nghiệm thu thẩm định và gợi ý, chỉ rõ cần quan tâm khai thác, ứng dụng những kết quả nghiên cứu nào của đề tài.

Sau khi nghiệm thu, cần tiến hành thu thập các đề xuất, kiến nghị của đề tài, lưu ý đến các kết luận gợi ý nêu trên của hội đồng nghiệm thu… để xây dựng danh mục các kết quả nghiên cứu có triển vọng và cần hỗ trợ tài chính để khai thác, ứng dụng vào thực tiễn với các đề xuất, địa chỉ cụ thể. Đồng thời, cần chủ động tìm kiếm các giải pháp, đề xuất và kết quả nghiên cứu khoa học liên quan để đề nghị hỗ trợ tài chính cho việc khai thác, ứng dụng chúng vào thực tiễn. Tổ chức xây dựng trang website nêu rõ danh mục các đề tài, kết quả nghiên cứu; cơ chế tài chính hỗ trợ khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu và các địa chỉ có nhu cầu và khả năng tổ chức khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu. Có các thông báo đăng tải một cách hệ thống kịp thời và rộng rãi trên các kênh thông tin đại chúng và chuyên ngành để thông tin cho các bên hữu quan cùng biết về việc khai thác, ứng dụng các kết quả nghiên cứu khoa học.../.