Trong thời gian qua, công tác cải cách hành chính đã đem lại không ít thuận lợi cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Thái Bình trên nhiều lĩnh vực. Tuy nhiên, ở góc độ tổng thể, công tác này chuyển động vẫn còn chậm so với yêu cầu đặt ra. Để xây dựng một nền hành chính minh bạch, chuyên nghiệp và hiệu quả, phù hợp với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, Thái Bình cần phải tiếp tục triển khai một số nhiệm vụ cụ thể trong thời gian tới.

Trước yêu cầu phát triển, hội nhập, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính trong tình hình mới, Thái Bình đã tiến hành tổng kết chương trình cải cách hành chính giai đoạn I (2001 - 2005), xây dựng và triển khai chương trình cải cách hành chính giai đoạn II (2006 - 2010), xây dựng kế hoạch cải cách hành chính năm 2006, 2007 trên bốn lĩnh vực theo chương trình tổng thể về cải cách hành chính nhà nước đã được Chính phủ ban hành. Bước đầu đã đạt một số kết quả quan trọng.

Về cải cách thể chế hành chính

Xác định đây là một trong những nội dung quan trọng của công tác cải cách hành chính, trong giai đoạn 2001- 2006, tỉnh đã rà soát được 8.956 văn bản quy phạm pháp luật (trong đó cấp tỉnh 481 văn bản, cấp huyện 2.001 văn bản, cấp xã 7.274 văn bản). Năm 2006, Ủy ban Nhân dân tỉnh chỉ đạo Sở Tư pháp phối hợp với các ngành kiểm tra, rà soát 9.421 văn bản hành chính và quy phạm pháp luật, trong đó có 2.355 văn bản cấp tỉnh, 183 văn bản cấp huyện và 6.883 văn bản cấp xã. Trong 6 tháng đầu năm 2007 toàn tỉnh ban hành 14.378 văn bản, trong đó có 6.722 văn bản cấp tỉnh, 6.866 văn bản cấp huyện. Thực hiện Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Ủy ban Nhân dân tỉnh quy định, kể từ năm 2007 tất cả các văn bản quy phạm pháp luật của ủy ban nhân dân tỉnh do các sở, ngành soạn thảo phải được Sở Tư pháp thẩm định trước khi trình ký, nhằm bảo đảm chất lượng văn bản và đúng thẩm quyền ban hành. Theo đó, về cơ bản các văn bản được ban hành đúng thẩm quyền, chất lượng được nâng lên một bước.

Đến nay, theo báo cáo của các đơn vị, năm 2007 toàn tỉnh có 16 văn bản cần ban hành, 11 văn bản cần sửa đổi, bổ sung, 7 văn bản đề nghị hủy bỏ. Tính đến tháng 6-2007, Sở Tư pháp đã thẩm định 5 văn bản, tham gia xây dựng 16 văn bản, rà soát 96 văn bản quy phạm pháp luật do Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân tỉnh ban hành. Sở Giáo dục và Đào tạo rà soát được 142 văn bản, trong đó đề nghị sửa đổi 78 văn bản, bổ sung 28 văn bản, đề nghị hủy bỏ 35văn bản. Sở Bưu chính - Viễn thông rà soát 10 văn bản, đề nghị sửa đổi, bổ sung 6 văn bản. Sở Tài chính rà soát 8 văn bản, đề nghị sửa đổi 1 văn bản. Ban quản lý các khu công nghiệp rà soát 25 văn bản, đề nghị sửa đổi bổ sung 4 văn bản. Huyện Vũ Thư rà soát 1.543 văn bản, đềnghị sửa đổi bổ sung 270 văn bản.

Các sở, ban, ngành đang tiếp tục xây dựng, hoàn chỉnh quy chế làm việc. Đến nay có 8 sở, ban, ngành xây dựng xong quy chế làm việc của đơn vị gửi về Ban chỉ đạo cải cách hành chính của tỉnh. Cấp huyện và thành phố đang hoàn thiện quy chế làm việc. Ngày 27- 6- 2007 ủy ban nhân dân tỉnh đã có báo cáo và kế hoạch triển khai đề án đơn giản hóa thủ tục hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước giai đoạn 2007 - 2010 tới các sở, ban, ngành triển khai thực hiện.

Ủy ban Nhân dân tỉnh đã phê duyệt cơ chế một cửa của 18 sở, ngành và 8/8 huyện, thành phố. Tỉnh cũng đã ban hành Chỉ thị số 24/ CT-UB ngày 15-11-2004 hướng dẫn các xã, phường, thị trấn xây dựng kế hoạch và chuẩn bị các điều kiện cơ sở vật chất, nguồn nhân lực để triển khai đồng loạt cơ chế một cửa tại Ủy ban nhân dân cấp xã vào ngày 1-1-2005. Đến nay đã có 282/285 xã, phường, thị trấn trong tỉnh thực hiện cơ chế "một cửa". Ngày 3-4-2007, Ủy ban Nhân dân tỉnh ban hành quyết định số 662/QĐ-UBND về việc ban hành Quy chế hoạt động của bộ phận tiếp nhận và trả kết quả theo cơ chế "một cửa", cấp 100 triệu đồng để trang bị cơ sở vật chất cho bộ phận "một cửa" từng bước đi vào hoạt động. Tính đến tháng 6-2007, toàn tỉnh đã có 165.206 hồ sơ đề nghị giải quyết theo cơ chế "một cửa: trong đó cấp huyện đã giải quyết 145.887/146.147 hồ sơ; cấp tỉnh đã giải quyết 17.384/19.059 hồ sơ. ủy ban nhân dân tỉnh cũng đã phê duyệt cho Sở Văn hóa- Thông tin, Sở Bưu chính - Viễn thông thực hiện cơ chế "một cửa".

Về cải cách tổ chức bộ máy

Năm 2006, Ủy ban Nhân dân tỉnh đã tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh và huyện, theo Quyết định 71, 72 của Chính phủ; ban hành 37 quyết định về sắp xếp tổ chức bộ máy điều chỉnh chức năng nhiệm vụ của các cơ quan hành chính sự nghiệp.

Đến tháng 6-2007, tỉnh đã tập trung kiện toàn tổ chức bộ máy của các đơn vị của sở, ngành thuộc ủy ban nhân dân tỉnh; thẩm định đề án thành lập 4 bệnh viện đa khoa; quyết định cho phép thành lập một số trường trung học phổ thông, trung cấp, cao đẳng, thành lập một số hội. Sở Nội vụ thẩm định kế hoạch biên chế hành chính sự nghiệp. Để hiện đại hóa nền hành chính, các sở, ngành, huyện, thành phố tiếp tục đầu tư thiết bị, máy móc, tạo điều kiện cho cán bộ, nhân viên thực hiện nhiệm vụ được giao. ứng dụng hệ thống mạng máy tính nội bộ, cập nhật và khai thác thông tin phục vụ có hiệu quả cho công tác. Triển khai áp dụng hệ thống ISO 9000, dự kiến hoàn thành vào quý IV năm 2007 tại Văn phòng Ủy ban Nhân dân tỉnh, Sở Nội vụ, Sở Khoa học và Công nghệ, Thanh tra nhà nước tỉnh.

Tính đến tháng 6-2007, toàn tỉnh đã có 165.206 hồ sơ đề nghị giải quyết theo cơ chế "một cửa: trong đó cấp huyện đã giải quyết 145.887/ 146.147 hồ sơ; cấp tỉnh đã giải quyết 17.384/ 19.059 hồ sơ.

Về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức

Căn cứ văn bản hướng dẫn của Bộ Nội vụ, Ủy ban Nhân dân tỉnh ban hành các văn bản phân cấp công tác tuyển dụng, điều động, thuyên chuyển cán bộ, công chức theo Nghị định 116/ 2003/ NĐ-CP của Chính phủ. Trong năm 2006, tỉnh tổ chức kỳ thi tuyển công chức bảo đảm đúng quy chế, đã tuyển dụng được 179 công chức; trong 6 tháng đầu năm 2007 tuyển dụng, điều động bổ sung cho cơ quan hành chính, sự nghiệp 632 công chức. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức về chuyên môn, nghiệp vụ cũng được chú trọng, bằng cách mở các lớp bồi dưỡng đa dạng, hỗ trợ kinh phí phù hợp. Tỉnh cũng có chính sách ưu tiên, đãi ngộ về vật chất và tinh thần đối với những người có học vị tiến sĩ, chuyên gia giỏi. Hoàn thành việc lập hồ sơ, danh sách cán bộ, công chức cấp xã để quản lý theo quy định của Bộ Nội vụ; xếp ngạch, bậc lương cho cán bộ, công chức xã theo Nghị định 204 của Chính phủ. Các trường hợp công chức xã có bằng chuyên môn không phù hợp sẽ được liên ngành của tỉnh thẩm định và tham mưu, cho phép vận dụng phù hợp với thực tế cơ sở.

Về cải cách hành chính công

Thực hiện Luật Ngân sách sửa đổi, tỉnh bổ sung cơ chế phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách triệt để cho các cấp chính quyền. Thực hiện công khai định mức phân bổ dự toán ngân sách cho các đơn vị thụ hưởng ngân sách, tăng cường tính chủ động của ngân sách các cấp. Đổi mới quy trình cấp phát tài chính, phê duyệt dự toán góp phần khuyến khích và tạo điều kiện cho các cấp quản lý, khai thác nguồn thu, tăng thu cho ngân sách nhà nước. Các sở, ban, ngành thực hiện khoán kinh phí và biên chế hành chính theo Nghị định 130/NĐ-CP và 43/NĐ-CP của Chính phủ.

Tính đến tháng 6-2007, toàn tỉnh có 17 đơn vị xây dựng được quy chế chi tiêu nội bộ và qua thực hiện đang tiếp tục hoàn chỉnh, bảo đảm hợp lý để làm cơ sở cho việc kiểm soát chi và trích lập các quỹ, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức. Việc giao khoán biên chế và kinh phí cho các cơ quan, đơn vị thực hiện ở khâu khoán kinh phí theo biên chế được thông báo. Tỉnh cũng đã xây dựng kế hoạch hành động thực hiện Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo Quyết định 30 ngày 6-2-2006 của Thủ tướng Chính phủ và triển khai thực hiện ở các sở, ngành, địa phương cơ sở.

Nhìn lại thời gian qua, dù mới chỉ là chặng đầu, nhưng rõ ràng có ý nghĩa rất quan trọng, công tác cải cách hành chính đã đem lại không ít thuận lợi cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của Thái Bình, trực tiếp tháo gỡ những vướng mắc về cơ chế, chính sách trong nhiều lĩnh vực nhất là về đất đai, thu hút đầu tư, phân cấp tài chính, tuyển dụng cán bộ, viên chức, cải cách tài chính công. Việc thực hiện cơ chế "một cửa" đã từng bước đi vào nền nếp, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tạo ra bước chuyển biến quan trọng về phương thức hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc giải quyết thủ tục hành chính, cải thiện mối quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với tổ chức và công dân. Tuy nhiên, ở góc độ tổng thể, công tác cải cách hành chính chuyển động vẫn còn chậm so với yêu cầu đặt ra. Nhận thức của một số cán bộ, công chức kể cả cán bộ, công chức lãnh đạo một số cơ quan, đơn vị chưa đồng đều, chưa thấy hết được yêu cầu, bức xúc của công cuộc đổi mới nền hành chính nhà nước. Mặt khác, cải cách hành chính động chạm đến quyền lợi của một bộ phận cán bộ, nên có những cơ quan, đơn vị, cán bộ công chức còn e dè, chờ đợi, ngại va chạm hoặc vì không muốn mất quyền lợi nên không nhiệt tình thực hiện.

Việc thực hiện cơ chế "một cửa" còn một số điểm bất hợp lý, có nơi chưa bố trí được cán bộ làm việc tại bộ phận "một cửa"; chưa được đầu tư về cơ sở vật chất đầy đủ. Ban chỉ đạo cải cách hành chính hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm; chế độ trách nhiệm và quyền lợi của từng thành viên cũng như tổ chuyên viên giúp việc chưa quy định cụ thể; các thành viên phần lớn là cán bộ lãnh đạo các sở, ban, ngành, cho nên phần lớnthời gian dành cho chuyên môn là chủ yếu; do đó ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động chỉ đạo công tác cải cách hành chính của tỉnh.

Để tạo bước chuyển biến mạnh mẽ trong công tác cải cách hành chính, trong thời gian tới, chúng tôi tập trung vào một số nhiệm vụ chủ yếu sau :

Thứ nhất, tiếp tục tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về cải cách hành chính, mở rộng các chuyên mục, chuyên đề về cải cách hành chính trên các phương tiện thông tin đại chúng để phổ biến, nâng cao nhận thức trong cán bộ và nhân dân về vị trí, vai trò của cải cách hành chính, đồng thời phát huy vai trò giám sát, kiểm tra của các cơ quan thông tin tuyên truyền trong việc thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính của cơ quan đơn vị, sở, ngành và cán bộ, công chức.

Thứ hai, căn cứ vào kế hoạch cải cách hành chính của Ủy ban Nhân dân tỉnh và xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của mình, các cơ quan chuyên môn, sở ban, ngành, huyện, thành phố xây dựng kế hoạch triển khai nhiệm vụ cải cách hành chính phù hợp với thực tế. Những cơ quan đơn vị được giao xây dựng đề án thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính phải khẩn trương hoàn thành để trình ủy ban nhân dân tỉnh và tổ chức thực hiện. Các sở, ngành, huyện thành phố xây dựng, hoàn chỉnh quy chế làm việc của cơ quan, đơn vị mình, trong đó quy định rõ cơ chế phối hợp giữa các phòng, ban trực thuộc, mối quan hệ công tác và nhiệm vụ cụ thể cho từng chức danh cán bộ, công chức. Tiếp tục rà soát danh mục các lĩnh vực cần phân cấp và triển khai trên thực tế.

Thứ ba, tăng cường nguồn lực và bố trí đủ kinh phí cho các hoạt động để thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính. Củng cố, kiện toàn Ban chỉ đạo cải cách hành chính cấp tỉnh, huyện, tổ chuyên viên giúp việc ban chỉ đạo các cấp; quy định nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên và quy chế hoạt động của tổ chuyên viên. Kinh phí thực hiện cải cách hành chính và bộ phận "một cửa" tại cấp huyện, xã do ngân sách cấp huyện, thành phố cấp. Tổ chức lớp tập huấn về công tác cải cách hành chính cho Ban chỉ đạo và tổ chuyên viên giúp việc Ban chỉ đạo cấp tỉnh, huyện, thành phố. Mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ làm công tác tại bộ phận "một cửa" ở xã, phường, thị trấn.

Thứ tư, Ban chỉ đạo cải cách hành chính các cấp có trách nhiệm tăng cường, kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn các cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ cải cách hành chính. Tập trung kiểm tra việc thực hiện thủ tục hành chính và cơ chế "một cửa", thực hiện phân cấp trong quản lý hành chính, thực hiện cơ chế quản lý tàichính theo Nghị định 130/NĐ-CP và Nghị đinh 43/NĐ-CP của Chính phủ.