Trong hai ngày 13 và 14-9, tại Hà Nội, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức Hội nghị nghiên cứu, quán triệt, triển khai thực hiện các nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 5, khóa X, dành cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên các tỉnh, thành phố, cơ quan trung ương khu vực phía bắc. Đồng chí Tô Huy Rứa, Bí thư Trung ương Ðảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương đã có bài phát biểu quan trọng và kết luận Hội nghị. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc toàn văn bài phát biểu.

Sau hai ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc với tinh thần trách nhiệm cao, Hội nghị nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa X dành cho cán bộ chủ chốt, báo cáo viên các tỉnh, thành phố khu vực phía bắc và các cơ quan Trung ương đã hoàn thành chương trình đề ra. Thay mặt Ban Bí thư Trưng ương Ðảng và lãnh đạo Ban Tuyên giáo Trung ương, tôi nhiệt liệt chào mừng các đồng chí và xin nêu một vài vấn đề, mong được các đồng chí lưu tâm hơn trong quá trình nghiên cứu, quán triệt và thực hiện nghị quyết tại các ngành, địa phương.

Như chúng ta đều rõ, với tinh thần trách nhiệm cao trước Ðảng và nhân dân, trong chương trình công tác toàn khóa, Ban Chấp hành Trung ương khóa X đã xác định tại Hội nghị Trung ương 5 sẽ tập trung bàn về công tác xây dựng Ðảng và Nhà nước, đổi mới hệ thống chính trị nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Ðại hội X, bảo đảm thực hiện tốt các nhiệm vụ đề ra trong cả nhiệm kỳ và những năm tiếp theo, nhất là những nhiệm vụ quan trọng, có tính cấp bách hiện nay.

Thực hiện chương trình công tác toàn khóa đó, Hội nghị Trung ương 5 đã bàn và ra nghị quyết về một loạt nội dung liên quan đến chủ đề trên. Ðó là công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới; Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng; Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị; Ðẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước. Hội nghị Trung ương cũng đã bàn và quyết định một số vấn đề về bộ máy, tổ chức, nhân sự các cơ quan nhà nước, nhằm tiếp tục các nội dung và tổ chức thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa X "Ðổi mới kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan đảng, định hướng về đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể chính trị - xã hội".

Toàn bộ nội dung chương trình Hội nghị Trung ương 5 lần này tập trung giải quyết các vấn đề vừa cơ bản, vừa cấp bách, nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Ðảng, đổi mới tổ chức hoạt động của hệ thống chính trị, tạo sự hài hòa, đồng bộ hơn với đổi mới kinh tế, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới phát triển toàn diện với chất lượng, hiệu quả hơn.

Biết rằng, trong hai ngày qua các đồng chí đã được nghe bài phát biểu quan trọng chỉ đạo Hội nghị của đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư; đã vừa nghe các báo cáo viên trình bày nội dung cơ bản của các nghị quyết, vừa tự nghiên cứu, trao đổi kỹ về các vấn đề này. Nhưng để kết luận Hội nghị, tôi muốn được nhấn mạnh thêm một số vấn đề cơ bản, cốt lõi nhất trong các nghị quyết và trong việc tổ chức nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết ở ngành, địa phương như sau:

Vấn đề thứ nhất, tôi muốn lưu ý thêm với các đồng chí về ý nghĩa, tầm quan trọng và những nội dung cơ bản, mới cần quan tâm nghiên cứu trong các nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa X.

Thứ nhất, về Nghị quyết công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới.

Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong toàn bộ hoạt động của Ðảng. Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí của Ðảng càng trở nên cấp thiết và quan trọng hơn khi cách mạng bước vào giai đoạn phát triển mới, đặt ra những yêu cầu mới. Hội nghị Trung ương 5 lần này bàn về công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trong đặc điểm và yêu cầu mới đó.

Chúng ta đều biết, trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang đứng trước những cơ hội mới do những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của 20 năm đổi mới trên tất cả các lĩnh vực mang lại, đồng thời cũng đứng trước những yêu cầu, thách thức mới trong hoàn cảnh mới. Những yêu cầu mới đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận, báo chí phải có sự bứt phá mạnh mẽ, vươn lên, khắc phục cho được tình trạng lạc hậu trên một số lĩnh vực, phải nâng cao tầm nhìn, đổi mới sâu sắc nội dung, phương pháp, mở rộng phạm vi và năng lực hoạt động, làm tròn chức năng, vai trò đi trước, mở đường cho sự phát triển của đất nước trong những năm tới.

Nhận thức trên của Trung ương thể hiện ngay trong cách đặt vấn đề. Việc Trung ương điều chỉnh tên gọi của Nghị quyết từ "Những vấn đề tư tưởng, lý luận và báo chí trong tình hình mới" thành "Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới" hoàn toàn không đơn thuần ở từ ngữ, câu chữ, mà qua đó nhấn mạnh trách nhiệm chủ thể của công tác tư tưởng, lý luận, báo chí là toàn Ðảng và các cơ quan của Ðảng; đặt công tác tư tưởng, lý luận, báo chí trước những yêu cầu mới, cơ bản, cấp bách và phức tạp, đòi hỏi công tác này phải đáp ứng, phải giải quyết.

Trong báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị xác định các yêu cầu mới đối với công tác tư tưởng, lý luận, báo chí, gồm các điểm sau:

Một là, những năm tới, mục tiêu, nhiệm vụ của công tác tư tưởng, lý luận và báo chí nặng nề hơn, thể hiện trước hết ở chỗ công tác tư tưởng, lý luận, báo chí phải thích ứng và phục vụ có hiệu quả cao nhất những mục tiêu lớn của cách mạng nước ta trong giai đoạn mới. Từ nay đến năm 2020, đất nước ta phải hoàn thành 2 nhiệm vụ có tính lịch sử là: ra khỏi tình trạng kém phát triển trước năm 2010 và đến năm 2020, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nhiệm vụ nặng nề đó đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận và báo chí một sự phấn đấu mới, phải nỗ lực tìm tòi, đổi mới mạnh mẽ hơn về nội dung và phương pháp hoạt động.

Hai là, quá trình hội nhập sâu và trực tiếp vào đời sống kinh tế quốc tế cùng với sự mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội đang đặt chúng ta trước những thách thức gay gắt hơn, phức tạp hơn rất nhiều so với trước đây. Trong điều kiện đó, lĩnh vực tư tưởng, lý luận và báo chí phải tiếp cận trực tiếp với các trào lưu, các khuynh hướng tư tưởng bên ngoài xâm nhập vào nước ta, đang tác động nhanh và mạnh vào tư tưởng, tâm lý, tình cảm, lối sống của con người Việt Nam. Sự chống phá của các thế lực thù địch trong và ngoài nước sẽ ngày càng điên cuồng, quyết liệt và tinh vi hơn; chúng coi tư tưởng, lý luận và báo chí là khâu đột phá để tấn công vào Ðảng ta, vào nền tảng tư tưởng của cách mạng nước ta.

Do đó, yêu cầu bảo vệ nền tảng tư tưởng, vững vàng trên trận địa tư tưởng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trước một xu thế "xâm lăng văn hóa" đặt ra một cách rất trực tiếp. Nó đòi hỏi công tác tư tưởng, lý luận và báo chí phải nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân vững vàng, không dao động trước các trào lưu, các khuynh hướng chính trị, tư tưởng, văn hóa từ bên ngoài vào nước ta.

Ba là, ở trong nước, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập ngày càng trực tiếp vào kinh tế thế giới, bên cạnh những yếu tố tích cực, sẽ xuất hiện xu thế khách quan là sự phân hóa về thu nhập, sự khác biệt về lợi ích trong các tầng lớp và nhóm xã hội. Sự hình thành các nhóm lợi ích xã hội khác nhau chính là tiền đề để hình thành các khuynh hướng tư tưởng khác nhau, tác động trực tiếp vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, vào sự đồng thuận xã hội. Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí phải nhận thức rõ và có trách nhiệm lớn trong việc hóa giải những biểu hiện tiêu cực trong các xu thế này.

Bốn là,tình hình quốc tế đang tiếp tục biến đổi nhanh chóng, phức tạp, nhất là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, đặt ra những yêu cầu mới về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí. Trên thế giới đã và sẽ xuất hiện những vấn đề mới về lý luận, đòi hỏi những người làm công tác tư tưởng, công tác lý luận phải đánh giá, định hướng đúng, kịp thời lý giải thỏa đáng trong tuyên truyền cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Quản lý báo chí không thể tiến hành như cũ, khi các phương thức thông tin đa dạng, nhiều chiều gắn với các phương tiện hiện đại đang phát triển mạnh mẽ cả ở trong nước và nước ngoài. Vì vậy, để đáp ứng đòi hỏi mới đó, công tác tư tưởng, lý luận và báo chí phải có nhiều nỗ lực mới, phải nghiên cứu một cách nghiêm túc để có câu trả lời thỏa đáng, khoa học, góp phần định hướng chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Trong quan điểm chỉ đạo Trung ương chỉ rõ vai trò, vị trí, sứ mệnh của công tác tư tưởng, lý luận và báo chí. Xin lưu ý các đồng chí, lần đầu tiên, Trung ương từ tổng kết thực tiễn đã xác định bốn quan điểm chỉ đạo đối với lĩnh vực tư tưởng, lý luận, báo chí, trong đó có những nội dung rất mới. Ví dụ, Trung ương khẳng định, đây là một bộ phận "đặc biệt quan trọng" trong toàn bộ hoạt động của Ðảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị của chế độ; là cơ sở để khẳng định, nâng cao vai trò tiên phong của Ðảng ta về chính trị, lý luận, trí tuệ, văn hóa và đạo đức.

Một nội dung nữa trong quan điểm chỉ đạo của Ðảng lần này cần chú ý: phải quan tâm đến tính đặc thù, những quy luật đặc thù của công tác tư tưởng, lý luận và báo chí để từ đó định ra những yêu cầu có tính phương pháp luận đúng đắn và phương pháp khoa học, phù hợp hơn. Trong quan điểm chỉ đạo thứ tư, Trung ương khẳng định công tác tư tưởng, lý luận và báo chí là công tác đối với con người, cho nên phải gắn chặt lý chí với tình cảm; gắn sự định hướng với tính tự nguyện.

Trung ương khẳng định mạnh mẽ công tác tư tưởng, lý luận và báo chí, một mặt, phải đấu tranh để bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; mặt khác cũng đồng thời nhấn mạnh vế thứ hai: "Phát triển" chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhiệm vụ đó yêu cầu công tác tư tưởng, lý luận phải làm rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, trong điều kiện mới, đáp ứng yêu cầu phát triển và phù hợp với thực tiễn đất nước, thời đại. Ðây là một yêu cầu rất cao đối với toàn bộ công tác lý luận của chúng ta.

Về phương thức tiến hành, trong khi khẳng định cần phát huy sức mạnh tổng hợp để phát triển công tác tư tưởng, lý luận và báo chí, Trung ương cũng nhấn mạnh phải đề cao việc phát huy dân chủ, tự do tư tưởng, khai thác mọi tiềm năng sáng tạo của toàn Ðảng và toàn xã hội, tạo bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện trên lĩnh vực này.

Trong hệ thống các nhiệm vụ và giải pháp của ba lĩnh vực tư tưởng, lý luận, báo chí, xin lưu ý các đồng chí, Nghị quyết lần này gắn chặt nhiệm vụ với giải pháp. Nhiệm vụ được xác định trên cơ sở phải đáp ứng các yêu cầu mới, và đặc biệt, phải khắc phục bằng được các yếu kém, khuyết điểm kéo dài trong thời gian qua; mỗi nhiệm vụ gắn với các nhóm giải pháp cần thiết, trong đó có những giải pháp mới, đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực rất nhiều... Vì vậy, nghiên cứu Nghị quyết lần này cần thể hiện rõ tư duy hành động, tăng cường thảo luận để tổ chức hoạt động có hiệu quả. Ðó cũng chính là một định hướng mới và quan trọng khi Trung ương thảo luận và ra Nghị quyết quan trọng này.

Thứ hai, về Nghị quyết tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng.

Công tác kiểm tra, giám sát của Ðảng có vai trò rất quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Ðảng. Một nguyên lý cơ bản ai cũng rõ là không có kiểm tra, không có lãnh đạo. Hội nghị Trung ương 5 đã xác định rõ một cách nhìn toàn diện, sâu sắc về mục tiêu của công tác kiểm tra, giám sát, mà lâu nay, theo thói quen và quan niệm cũ, vẫn dừng lại ở một số nội dung hạn hẹp. Các mục tiêu được xác định là:

1- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng.

2- Thực hiện dân chủ trong Ðảng, giữ vững kỷ cương, kỷ luật Ðảng.

3- Ngăn chặn và phòng ngừa sự suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong Ðảng và trong bộ máy nhà nước.

4- Góp phần bảo vệ quan điểm, đường lối của Ðảng, tránh các nguy cơ sai lầm về đường lối, quan liêu, xa dân.

5- Kịp thời phát hiện những nhân tố mới, các ưu điểm của tổ chức đảng, đảng viên để phát huy, bảo vệ, bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước.

Như vậy, quan niệm về công tác kiểm tra, giám sát là một bước phát triển về tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn của Ðảng. Các cấp ủy Ðảng, các ủy ban kiểm tra của Ðảng cần quán triệt sâu sắc các nội dung cốt lõi và toàn diện trên.

Hiện nay, hoàn cảnh khách quan đang đặt ra cho Ðảng ta và đội ngũ đảng viên của chúng ta những thách thức mới. Kinh tế thị trường ngày càng phát triển mạnh, hội nhập quốc tế ngày càng sâu và toàn diện, bên cạnh mặt được, không ít những thách thức đang đứng trước chúng ta. Ðảng là một tổ chức nằm trong xã hội, cán bộ, đảng viên của Ðảng sống trong xã hội, cho nên mặt trái kinh tế thị trường, của quá trình hội nhập cũng tác động ngày càng mạnh vào Ðảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Ðảng. Ðã có nhiều bài học đau xót và vô cùng thấm thía với chúng ta khi bước vào kinh tế thị trường. Ðiều đó nhắc nhở chúng ta không thể chủ quan, không thể lơ là công tác kiểm tra, giám sát.

Mặt khác, từ Ðại hội X, Ðiều lệ Ðảng có bổ sung thêm cho cấp ủy và Ủy ban Kiểm tra các cấp một chức năng mới, đó là chức năng giám sát. Nghị quyết lần này đã làm rõ nội hàm của công tác giám sát của Ðảng, để không lẫn với giám sát của các cơ quan dân cử, giám sát tối cao của Quốc hội, giám sát của hội đồng nhân dân các cấp, giám sát của nhân dân thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Nghị quyết đã làm rõ mối quan hệ giữa giám sát của Ðảng với giám sát của các cơ quan trong hệ thống chính trị, thực hiện đồng bộ giữa công tác kiểm tra và công tác giám sát theo hướng "giám sát phải mở rộng", "kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm" để chủ động phòng ngừa vi phạm và kịp thời phát hiện nhân tố mới. Ðó là một nội dung rất mới và rất quan trọng của Nghị quyết.

Trong Nghị quyết đã khẳng định những ưu điểm, những cố gắng, đóng góp quan trọng, nhưng cũng nêu những hạn chế, khuyết điểm trong công tác kiểm tra, giám sát cần phải khắc phục để đáp ứng yêu cầu mới. Ðó là: sự quan tâm của các cấp ủy Ðảng, của bí thư cấp ủy đối với công tác kiểm tra chưa đúng tầm. Lâu nay, công tác kiểm tra thường giao cho Ủy ban Kiểm tra, cơ quan kiểm tra tiến hành kiểm tra là chính, còn kiểm tra của cấp ủy rất hạn chế. Nội dung kiểm tra thường sa vào vụ việc, có đơn thư, có dư luận mới kiểm tra, nên thiếu kế hoạch, toàn diện, đồng bộ; kiểm tra nhiều, nhưng chuyển biến ít. Chất lượng kiểm tra, nhất là chất lượng xử lý sau kiểm tra, rất hạn chế; vẫn còn biểu hiện né tránh trong kiểm tra. Một số kết luận kiểm tra thiếu tính khoa học, thiếu tính nghiêm minh. Việc xử lý sau kiểm tra rất chậm trễ, không có tác dụng răn đe, còn "nhẹ trên, nặng dưới"... Bên cạnh đó, công tác giám sát trong Ðảng hầu như chưa được quan tâm. Việc Hội nghị Trung ương 5 ra Nghị quyết về công tác kiểm tra, giám sát là nhằm khắc phục những yếu kém nói trên, đồng thời phát huy những yếu tố tích cực, nâng tầm trí tuệ và tính khoa học của công tác này, để kiểm tra, giám sát của Ðảng được tiến hành đồng bộ, toàn diện và hiệu lực, hiệu quả cao.

Trong Nghị quyết, Trung ương đã xác định rõ chủ thể và đối tượng của kiểm tra, giám sát và nhấn mạnh trách nhiệm trực tiếp của cấp ủy đối với công tác kiểm tra, giám sát, xem đó là nhiệm vụ thường xuyên, toàn diện và phải thực hiện có hiệu lực, hiệu quả; gắn giám sát với kiểm tra, chủ động phòng ngừa, phát hiện sớm, ngăn chặn, giải quyết từ khi mới manh nha, không để xảy ra vi phạm; kết hợp "xây với chống", lấy "xây" làm chính. Về các chủ trương, giải pháp nêu trong Nghị quyết, đặc biệt lưu ý hai nội dung. Một là, phải chuẩn hóa và pháp quy hóa quy trình, phương pháp kiểm tra, giám sát. Hai là, Nghị quyết đã xác định rõ phần trọng tâm của công tác kiểm tra, giám sát hiện nay là các lĩnh vực: chính trị, tư tưởng, quản lý báo chí; về chấp hành nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng; kinh tế, tài chính; hành chính, tư pháp; tổ chức và cán bộ và việc giải quyết khiếu nại, tố cáo thực hiện lại quy chế dân chủ ở cơ sở. Ðây là những lĩnh vực đang tồn tại nhiều vấn đề có nguy cơ cao xảy ra vi phạm cần đặc biệt quan tâm.

Thứ ba, về Nghị quyết đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị.

Có thể khẳng định rằng, Hội nghị Trung ương 5 đã có bước phát triển mới, rõ rệt về một vấn đề rất hệ trọng của Ðảng cầm quyền, đó là Ðảng ta nhận thức rõ hơn về nội hàm phương thức lãnh đạo; về tầm quan trọng mang ý nghĩa chiến lược, lâu dài của việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng trong thời kỳ mới của cách mạng. Từ đó Nghị quyết khẳng định mục tiêu đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị nhằm:

1- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo, nâng cao tính khoa học, năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Ðảng đối với Nhà nước và toàn xã hội;

2- Sự gắn bó mật thiết giữa Ðảng với nhân dân;

3- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội;

4- Phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân;

5- Tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Ðảng và trong xã hội để nước ta phát triển nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong điều kiện một Ðảng duy nhất cầm quyền như ở nước ta, phương thức lãnh đạo của Ðảng tác động trực tiếp đến hoạt động của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị. Phương thức lãnh đạo tốt sẽ tạo động lực cho các tổ chức trong hệ thống chính trị phát huy vai trò, vị trí của mình; ngược lại, khi phương thức lãnh đạo của Ðảng không tốt sẽ kìm hãm sự phát huy năng lực của các tổ chức và hiệu quả thấp trong hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị.

Ðổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị hiện nay được đặt ra trong hoàn cảnh những năm qua bên cạnh những thành tựu đạt được, phương thức lãnh đạo của Ðảng vẫn còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập cần phải khắc phục: có nơi Ðảng bao biện làm thay, có nơi Ðảng buông lỏng sự lãnh đạo đối với hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc thiết kế những cơ chế, chính sách, những quy định có tính pháp quy để thể hiện sự lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị còn yếu và rất thiếu những quy định cụ thể, khả thi, còn xem nhẹ phong cách, lề lối lãnh đạo... Từ thực tiễn trên và đặc biệt, từ sự thấu hiểu sâu sắc những đòi hỏi mới đối với quá trình đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng, Nghị quyết Trung ương 5 đã tổng kết và làm rõ những quan điểm, nội dung, các giải pháp mang tính toàn diện và thực tiễn, trong đó có nhiều nội dung rất mới, rất cụ thể.

Trung ương rất quan tâm đến tính đồng bộ và tính tổng thể trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị. Ðó là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng phải đặt trong tổng thể công tác đổi mới, chỉnh đốn Ðảng; đồng bộ với việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, với việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Ðổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng phải đồng bộ với đổi mới phát triển kinh tế, xuất phát từ yêu cầu tiếp tục đổi mới, phát triển kinh tế; phải trực tiếp tác động vào quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong khi tiếp tục đề cao việc kiên định nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng, Trung ương nhấn mạnh việc thực hành dân chủ rộng rãi, đẩy mạnh việc thực hiện phân cấp mạnh hơn, gắn với việc đề cao trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu; đề cao tính sáng tạo của các cấp, các ngành phù hợp với điều kiện, đặc điểm và yêu cầu của ngành, địa phương.

Ðảm bảo sự thống nhất chặt chẽ giữa hai yêu cầu trên, một mặt, Nghị quyết khẳng định những nội dung có tính nguyên tắc phải thực hiện trong quá trình đổi mới, mặt khác, đã chỉ ra tương đối cụ thể, chính xác những quy định, quy chế, chế tài trong quan hệ giữa phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hệ thống chính trị. Ðây là bước tiến trong quá trình thể chế hóa phương thức lãnh đạo của Ðảng.

Về giải pháp, Nghị quyết cũng nêu nhiều điểm mới, quan trọng, như: về mặt nội dung, phương hướng hoạt động, Ðảng giữ đúng là cơ quan lãnh đạo chứ không làm thay các tổ chức trong hệ thống chính trị. Tiếp tục đề cao hơn trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị đối với công tác cán bộ; tôn trọng và phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị, như Quốc hội, Chính phủ...

Khẳng định quan điểm Ðảng thống nhất quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời Nghị quyết yêu cầu mở rộng dân chủ trong việc bầu chọn cán bộ lãnh đạo. Ðảng có trách nhiệm giới thiệu người của mình ra ứng cử, đồng thời tôn trọng quyền đề cử, ứng cử và quyết định của các cơ quan dân cử.

Từ việc xác định nhiệm vụ và giải pháp trong phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở Trung ương, Nghị quyết có một phần rất quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn, đó là xác định rõ phương thức lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị ở địa phương, với nhiều nội dung mới, cụ thể. Ðề nghị các đồng chí lãnh đạo địa phương cần nghiên cứu kỹ, chủ động, tích cực triển khai với bước đi vững chắc.

Thứ tư, về Nghị quyết "Ðẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước".

Vấn đề cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước có ý nghĩa thực tiễn cấp bách trong tình hình hiện nay, vì nó liên quan trực tiếp đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, đến cuộc sống của mỗi người dân. Ðiều đó càng trở nên quan trọng và bức thiết khi nước ta đã và đang hội nhập ngày càng sâu và toàn diện vào nền kinh tế thế giới, chấp nhận những quy định trong khuôn khổ của WTO.

Trong những năm qua, mặc dù chúng ta đã có nhiều cố gắng, đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng, nhưng lĩnh vực này còn nhiều hạn chế, yếu kém và vướng mắc cần tập trung giải quyết. Hệ thống thể chế, luật pháp, nhất là thể chế về kinh tế thị trường còn thiếu, bất cập với luật pháp quốc tế; chức năng, nhiệm vụ của một số tổ chức trong hệ thống chính trị còn chưa rõ, còn chồng lấn, trùng lặp hoặc bỏ sót; tổ chức, bộ máy tuy đã được rút gọn qua nhiều lần sắp xếp lại, nhưng vẫn còn cồng kềnh; chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức tuy có được nâng lên một bước, nhưng còn thiếu rất nhiều chuyên gia; thể chế luật pháp về quản lý tài chính công còn nhiều bất cập; thủ tục hành chính vẫn còn nhiều rườm rà, phức tạp; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm, hiệu lực, hiệu quả quản lý chưa cao... Vì vậy, cải cách thủ tục hành chính là một yêu cầu có tính thực tiễn cấp bách nhằm phát huy sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Trong Nghị quyết, Trung ương xác định rõ các mục tiêu và yêu cầu phải đẩy mạnh cải cách hành chính, trong đó đặc biệt nhấn mạnh mục tiêu hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại,... và yêu cầu tập trung hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quy chế phối hợp để nâng cao vai trò, trách nhiệm của từng cơ quan và của cả bộ máy hành chính nhà nước thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng.

Về chủ trương và giải pháp, nghị quyết đã xác định rõ 10 nội dung quan trọng và rất toàn diện, gắn chặt nhiệm vụ với giải pháp, trong đó có nhiều vấn đề mới. Ðó là: Thực hiện cải cách hành chính phải đồng bộ với cải cách lập pháp và cải cách tư pháp, trong đó đặc biệt chú ý đến chất lượng xây dựng luật. Phải khắc phục bằng được tình trạng ban hành luật khung, phải chờ ban hành nghị định mới thực hiện được luật, hay tình trạng ban hành luật có những nội dung không rõ, không đủ sức điều chỉnh phạm vi cuộc sống, tạo kẽ hở và sự lúng túng cho cả cơ quan pháp luật và người thực hiện, chấp hành pháp luật.

Về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của Chính phủ, Nghị quyết đã khẳng định quan điểm và định hướng mới trong việc xây dựng cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại và đúng với vai trò là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất với cơ cấu hợp lý, tổ chức theo mô hình các bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Từ đó, định hướng tổ chức Chính phủ khóa XII là tiếp tục giảm số lượng các cơ quan bộ và ngang bộ, xây dựng các bộ và cơ quan ngang bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; giảm đến mức tối đa các cơ quan thuộc Chính phủ nhưng lại có chức năng quản lý nhà nước. Chính phủ phải tập trung làm tốt chức năng quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực mà pháp luật đã quy định, trong đó chú trọng xác định rõ phạm vi và nội dung quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội cho phù hợp với yêu cầu phát triển.

Vấn đề xác định mô hình chính quyền địa phương, cũng có những nội dung rất mới. Trên nguyên tắc tổ chức, hoạt động của chính quyền địa phương phải đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, nhà nước đơn nhất, Nghị quyết đã phân biệt rõ mô hình tổ chức chính quyền nông thôn và chính quyền đô thị. Ðây là một nội dung mới, cần nhận thức và quán triệt để tạo sự thống nhất cao trong chỉ đạo và tổ chức. Nghị quyết chủ trương, với chính quyền nông thôn không tổ chức hội đồng nhân dân ở huyện, với chính quyền đô thị không tổ chức hội đồng nhân dân ở quận và phường. Tuy nhiên nghị quyết cũng chỉ rõ đây là chủ trương mới nên cần thực hiện thí điểm, qua đó, tổng kết, đánh giá, xem xét để có chủ trương sửa đổi, bổ sung Hiến pháp về tổ chức chính quyền địa phương cho phù hợp.

Vấn đề thứ hai: Vì sao Trung ương ra bốn Nghị quyết trong một Hội nghị?

Thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng, Trung ương đã xác định chỉ ra nghị quyết khi thật cần thiết, một Hội nghị Trung ương không ra quá nhiều nghị quyết và các cấp ủy không ra nghị quyết thực hiện nghị quyết của cấp trên. Nhưng tại sao lần này Trung ương ra nhiều nghị quyết như vậy.

Thứ nhất, như các đồng chí đã nghiên cứu qua các báo cáo chuyên đề và tôi có nhấn mạnh thêm một số nội dung cốt lõi và mới ở trên, chúng ta thấy rất rõ từng Nghị quyết đều có vị trí rất quan trọng, không chỉ nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt mà còn bao quát những nội dung cơ bản, lâu dài, có ý nghĩa chiến lược, gắn chặt với sự phát triển toàn diện và bền vững của Ðảng, của chế độ và đất nước ta. Cả 4 Nghị quyết đều nhằm xây dựng Ðảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Ðảng. Tập trung cho chủ đề lớn này là hoàn toàn cần thiết và chính xác.

Thứ hai, các lĩnh vực trên lại có mối liên hệ bên trong sâu sắc, không thể chia cắt hay thực hiện riêng lẻ. Cần phải giải quyết đồng thời, đồng bộ và xử lý biện chứng các vấn đề cụ thể mới đảm bảo được hiệu quả cao và vững chắc.

Vả lại, khi xây dựng chương trình công tác toàn khóa Trung ương chủ trương trong nửa đầu nhiệm kỳ cần tập trung bàn những vấn đề lớn để triển khai sớm. Nửa sau của nhiệm kỳ sẽ hướng vào đôn đốc, kiểm tra, đánh giá.

Như vậy, mục tiêu của các nghị quyết được thông qua lần này là chú trọng đổi mới chính trị trong quan hệ đồng bộ với đổi mới kinh tế đã được tiến hành những năm qua, nhằm khắc phục những hạn chế, yếu kém đã được chỉ ra tại Ðại hội X của Ðảng. Tổng kết 20 năm đổi mới, Ðại hội X đã chỉ rõ, trong những năm qua, chúng ta đã tiến hành toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, nhưng đổi mới chính trị, hiểu theo nghĩa là đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng, đổi mới tổ chức, bộ máy và hoạt động của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Ðảng ở nước ta, còn chậm, thiếu đồng bộ, nên trong chừng mực nhất định đang làm chậm sự nghiệp đổi mới. Thực hiện các nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 còn là yêu cầu của hoàn cảnh phát triển của đất nước ta hiện nay. Gia nhập WTO, sự nghiệp đổi mới có nhiều thời cơ thuận lợi cần phải tranh thủ để phát triển đất nước nhanh, hiệu quả và bền vững. Sự nghiệp đổi mới hệ thống chính trị cũng phải nhằm vào mục tiêu đó. Trong từng nghị quyết đã xác định rõ mục tiêu đạt được và các giải pháp để thúc đẩy công việc đi nhanh hơn, đồng thời mỗi nghị quyết, khi thực hiện một cách nghiêm túc, hiệu quả, có tác dụng tạo điều kiện và thúc đẩy việc thực hiện các nghị quyết khác.

Vì vậy trong triển khai nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 cần phải tiến hành tất cả và đồng bộ các nội dung nêu trong các nghị quyết. Ðiều đó càng có ý nghĩa thiết thực và quan trọng đối với các ngành và địa phương, nơi có nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức thực hiện thành công các nghị quyết của Ðảng.

Vấn đề thứ ba: nhiệm vụ xây dựng Ðảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị là công việc hệ trọng, cần nghiên cứu, quán triệt đầy đủ, sâu sắc; đòi hỏi phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời có bước đi vững chắc, tổ chức thực hiện nghiêm túc và thận trọng, vừa làm, vừa tổng kết, rút kinh nghiệm...

Những vấn đề đặt ra trong 4 Nghị quyết lần này đều là những nội dung rất cơ bản, lớn, sâu sắc và rất nhạy cảm. Chúng ta phải có quyết tâm chính trị cao, bản lĩnh vững vàng để tiếp tục đẩy mạnh thực hiện bằng được các mục tiêu, nhiệm vụ của từng lĩnh vực, đồng thời phải thận trọng vừa làm, vừa rút kinh nghiệm. Mặt khác, vì là lĩnh vực rất nhạy cảm của cuộc đấu tranh chống chiến lược diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch, cần tỉnh táo, cảnh giác đề phòng. Các thế lực thù địch không bao giờ từ bỏ âm mưu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Ðảng, rêu rao dân chủ, nhân quyền... để tác động vào nhận thức, tư tưởng và hành động của một bộ phận quần chúng và đảng viên, cán bộ, tạo sự nghi ngờ, thiếu thống nhất trong Ðảng và trong xã hội, qua đó làm giảm sút và xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Ðảng, làm chệch định hướng xã hội chủ nghĩa của sự nghiệp đổi mới.

Ðiểm nữa cần thấy rõ là trong các Nghị quyết có một số chủ trương mới, như không tổ chức Hội đồng nhân dân cấp quận, huyện và phường, Thủ tướng bổ nhiệm chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh; nhân dân trực tiếp bầu chủ tịch ủy ban nhân dân xã... Ðây là những chủ trương, giải pháp mới, chưa được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác, cần làm điểm để rút kinh nghiệm trước khi nhân rộng ra toàn quốc.

Cần chú ý là trong các nghị quyết đều chỉ rõ một quan điểm nhất quán là ra sức phát huy sức mạnh, sức sáng tạo của nhân dân, mục tiêu cao nhất là phục vụ nhân dân, dù đó là nhiệm vụ xây dựng Ðảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Ðảng hay nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước. Vì vậy khi triển khai các nghị quyết, đề nghị các đồng chí đặc biệt chú trọng đến mục tiêu và quan điểm trên để có thể huy động cao nhất sức mạnh tổng hợp của địa phương, ngành, tổ chức thực hiện các nghị quyết với hiệu quả cao và phù hợp với điều kiện của địa phương, của ngành mình.

Vấn đề thứ tư: cần tiếp tục đổi mới phương thức tiến hành nghiên cứu, quán triệt và triển khai thực hiện các nghị quyết.

Khi bàn việc triển khai nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Ðại hội X, Bộ Chính trị đã thảo luận kỹ và yêu cầu các cấp ủy đảng phải đổi mới mạnh mẽ phương thức tiến hành, khắc phục tình trạng rập khuôn, máy móc trong triển khai nghiên cứu các nghị quyết, thiếu tích cực, trông chờ ở cấp trên, cũng như tình trạng làm qua loa, đại khái, hiệu quả thấp. Từ Ðại hội X đến nay, chúng ta đã và đang tích cực thực hiện theo định hướng này.

Một trong những nội dung đổi mới phương thức nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện nghị quyết là phát huy quyền chủ động và sáng tạo của ngành, địa phương. Trung ương chủ yếu tạo điều kiện cho các ngành, địa phương qua việc cung cấp tài liệu, bồi dưỡng báo cáo viên và định hướng việc triển khai nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết, còn các ngành, địa phương tự tổ chức việc triển khai đến các đối tượng thuộc cấp ủy quản lý. Tại các hội nghị cán bộ chủ chốt của ngành, địa phương các đồng chí bí thư, thường trực cấp ủy phải chủ động làm báo cáo viên, giới thiệu những nội dung cơ bản của nghị quyết, gắn với tình hình thực tiễn và những vấn đề cần thiết phải thực hiện ở ngành, địa phương. Qua thực tiễn đổi mới của một số ngành và địa phương, chúng ta đã thu được kết quả bước đầu. Cần tiếp tục thực hiện nghiêm túc chủ trương này khi triển khai nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết Hội nghị Trung ương 5.

Về vấn đề xây dựng chương trình hành động, cần nhận thức rõ đây là yêu cầu chung, cần thiết đối với quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết. Chúng ta đều rõ mục tiêu của học tập Nghị quyết là để hiểu, thông suốt trong tổ chức, cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhằm tạo nên sự thống nhất cao trong nhận thức và trong hành động, từ đó để đưa nghị quyết vào cuộc sống, đạt mục tiêu đề ra trong hoạt động thực tiễn. Ðây là thước đo quan trọng nhất của việc nghiên cứu, quán triệt và thực hiện nghị quyết. Xây dựng chương trình hành động là để tập trung sức mạnh tổng hợp của ngành, địa phương, tập trung các nguồn lực cho việc thực hiện nghị quyết. Vì vậy, việc xây dựng chương trình hành động để triển khai thực hiện nghị quyết trong ngành, địa phương là một yêu cầu chung, cần thiết phải làm.

Tuy nhiên, thực tiễn cũng đặt ra nhiều vấn đề phải suy nghĩ, tìm cách thực hiện cho có hiệu quả. Khi nghiên cứu, triển khai thực hiện Nghị quyết Ðại hội X, các ngành, địa phương đã có chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Ðại hội và nghị quyết của Ðại hội đảng bộ. Triển khai thực hiện nghị quyết các hội nghị Trung ương, nếu nghị quyết nào cũng xây dựng chương trình hành động thì chúng ta sẽ có quá nhiều chương trình hành động và đôi khi các chương trình hành động đó không hoàn toàn phù hợp với nhau, làm phân tán nguồn lực của ngành, địa phương. Vì vậy, để việc xây dựng chương trình hành động thực sự thiết thực và có hiệu quả, trong Hướng dẫn 11-HD/BTGTƯ, ngày 26-7-2007, Ban đã yêu cầu các ngành, địa phương xây dựng kế hoạch thực hiện hoặc chương trình hành động thực hiện các nghị quyết. Quan điểm chung là cần thiết phải có chương trình, kế hoạch thực hiện nghị quyết, nhưng trong điều kiện cụ thể của ngành, địa phương, cần cân nhắc kỹ để quyết định hoặc xây dựng kế hoạch thực hiện, bổ sung chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Ðại hội X đã có, hoặc xây dựng chương trình hành động riêng, phù hợp với yêu cầu và điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng ngành.

Thực hiện chủ trương đổi mới cách thức tiến hành hội nghị nghiên cứu, triển khai nghị quyết của Ðảng, tại Hội nghị này Ban Tuyên giáo Trung ương đã thiết kế chương trình, trong đó có tổ chức traođổi giữa các đồng chí học viên và giảng viên tại Hội trường ngay sau khi nghe báo cáo chuyên đề. Các đồng chí báo cáo viên chỉ tập trung giới thiệu những vấn đề cơ bản và mới, hướng dẫn các đại biểu nghiên cứu tài liệu trong khoảng 2/3 thời gian, thời gian còn lại dành để trao đổi, thảo luận giữa báo cáo viên và các đại biểu. Khi lựa chọn và mời các báo cáo viên, Ban chủ trương mời những đồng chí có kinh nghiệm thực tiễn trong lĩnh vực mà Nghị quyết đề cập, trao đổi trước với các báo cáo viên và được các đồng chí báo cáo viên đồng tình, rất sẵn sàng trao đổi với các đồng chí. Theo báo cáo của Ban Tổ chức Hội nghị, qua các buổi lên lớp tại Hội trường các đồng chí đã nêu những đề xuất, trao đổi với báo cáo viên và có nhiều đồng chí đã tận dụng thời gian nghỉ giữa giờ, đầu và cuối mỗi buổi học để trao đổi về những vấn đề lý luận và thực tiễn với giảng viên. Ðó là những kết quả bước đầu tích cực, tuy chưa nhiều.

Thực hiện chủ trương này, chúng ta cần giải bài toán tổ hợp là: thời gian không thể kéo quá dài; khắc phục tình trạng thuyết trình một chiều; phát huy tính chủ động, tích cực của các đại biểu, tăng cường trao đổi, thảo luận về nội dung, bàn bạc về cách thức tiến hành. Ðây là công việc khó nhưng cần thiết. Ðề nghị các đồng chí nghiên cứu để vận dụng sáng tạo và phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và ngành mình, với tinh thần, cái mới bao giờ cũng khó, nhưng với quyết tâm, chúng ta chắc chắn sẽ thực hiện ngày càng tốt hơn.

Thực hiện sự chỉ đạo của Ban Bí thư, Ban Tuyên giáo Trung ương tổ chức 2 hội nghị dành cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên của các đảng bộ trực thuộc Trung ương, chia hai khu vực phía Nam và phía Bắc. Tại Hội nghị dành cho khu vực phía Bắc, Ban rất vui mừng nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của các đồng chí. Ðã có 351 đại biểu của 32 tỉnh, 29 cơ quan Trung ương, 6 cơ quan báo, đài Trung ương dự Hội nghị. Tại Hội nghị này, chúng ta đã vui mừng được đón đồng chí Trương Tấn Sang, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư đến khai mạc và chỉ đạo hội nghị; các đồng chí lãnh đạo Ban Tổ chức Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Bộ Nội vụ đến trực tiếp giới thiệu các nội dung cơ bản và trao đổi, thảo luận, giải đáp về các nội dung, yêu cầu triển khai thực hiện nghị quyết ở ngành, địa phương. Ban Tuyên giáo Trung ương cũng đã cung cấp cho các đồng chí 3 loại tài liệu phục vụ việc nghiên cứu, quán triệt, tuyên truyền và tổ chức thực hiện các nghị quyết, gồm Tài liệu nghiên cứu, tài liệu học tập và tài liệu Hỏi - Ðáp về các nghị quyết. Ban tin tưởng rằng, với những tài liệu trên cùng các kết quả thu được tại hội nghị này, với sự chủ động, sáng tạo của các đồng chí, sau Hội nghị, các đồng chí sẽ tham mưu cho cấp ủy và sẽ là những báo cáo viên chính giới thiệu nội dung cơ bản của các nghị quyết tại các lớp nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết tại ngành và địa phương.

Với sự quan tâm của các đồng chí báo cáo viên và sự cố gắng của tất cả các đồng chí, Hội nghị của chúng ta đã hoàn thành chương trình đề ra, đạt được những mục tiêu mà Ban Bí thư, Ban Tuyên giáo Trung ương kỳ vọng vào Hội nghị.

Thay mặt Ban Tuyên giáo Trung ương tôi cảm ơn các đồng chí báo cáo viên, các đồng chí đại biểu, lãnh đạo và cán bộ Nhà khách Chính phủ 37 Hùng Vương, các cơ quan thông tin đại chúng, đã đóng góp tích cực và quan trọng vào thành công của Hội nghị.

Với niềm phấn khởi về kết quả đạt được và niềm tin vào việc triển khai có hiệu quả các nghị quyết ở ngành, địa phương, tôi tuyên bố bế mạc Hội nghị nghiên cứu, quán triệt các nghị quyết Hội nghị Trung ương 5, khóa X dành cho cán bộ chủ chốt và báo cáo viên các tỉnh, thành phố phía Bắc và các cơ quan Trung ương.
 

 
* Đầu đề của Tạp chí Công sản