TCCSĐT - Thủ tướng Chính phủ vừa có Chỉ thị yêu cầu các cơ quan liên quan tăng cường công tác triển khai thi hành Luật Hợp tác xã năm 2012.

Chỉ thị nêu rõ, trong những năm qua, cùng với doanh nghiệp nói chung, hợp tác xã là một thành phần kinh tế quan trọng trong cung cấp dịch vụ và kết nối sản xuất cho hàng chục triệu hộ gia đình để tạo ra sản phẩm có năng suất và chất lượng cao, gắn kết với doanh nghiệp trong tiêu thụ, chế biến.

Sau gần 5 năm triển khai Luật Hợp tác xã năm 2012, khu vực kinh tế tập thể với nòng cốt là hợp tác xã, mặc dù còn nhiều khó khăn, nhưng bước đầu tạo được chuyển biến cả về chất lượng, hiệu quả, ngày càng khẳng định rõ nét hơn vai trò quan trọng và có ý nghĩa toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, đã có những tín hiệu mới trong công cuộc phát triển phong trào hợp tác xã toàn quốc. Hiện nay, cả nước có khoảng 19.569 hợp tác xã, giai đoạn 2013 - 2016, đã có 5.641 hợp tác xã thành lập mới. Doanh thu của Hợp tác xã và thu nhập của người lao động được cải thiện, tác động tích cực đến kinh tế hộ thành viên. Đóng góp của khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã cho tăng trưởng GDP của cả nước trong 5 năm qua đạt trên 4%, góp phần thực hiện xoá đói giảm nghèo, ổn định an ninh, chính trị tại cộng đồng.

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, khu vực kinh tế tập thể, hợp tác xã còn nhiều khó khăn, phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Để Luật Hợp tác xã 2012 tiếp tục được triển khai một cách hiệu quả và thực sự phát huy hiệu lực trong thực tiễn, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đề nghị Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội tăng cường công tác tuyên truyền, tập huấn về pháp luật hợp tác xã cho toàn bộ hệ thống chính trị, cán bộ, đảng viên và cho các tầng lớp nhân dân hiểu rõ Luật Hợp tác xã năm 2012, cũng như vai trò và lợi ích của tổ chức hợp tác xã trong phát triển kinh tế - xã hội.

Các cấp ủy Đảng, chính quyền cần quán triệt sâu sắc vai trò của kinh tế tập thể, hợp tác xã trong nền kinh tế thị trường, xu thế phát triển trong mối quan hệ với các chủ thể kinh tế khác; xây dựng nội dung và phương pháp tuyên truyền phù hợp cho từng đối tượng để việc tuyên truyền thiết thực và hiệu quả, với nhiều hình thức đa dạng, phong phú như: Tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm, tổ chức cuộc thi tìm hiểu về hợp tác xã, mở các chuyên san, chuyên mục về phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức triển lãm, hội chợ giới thiệu các sản phẩm của hợp tác xã, xây dựng các phim phóng sự, phim truyền hình về hợp tác xã.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hợp tác xã; theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện các quy định trong Luật Hợp tác xã: Nghiên cứu, đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định còn bất cập tại Luật Hợp tác xã 2012 cho phù hợp với tình hình thực tế của mỗi giai đoạn phát triển; chỉ đạo, hướng dẫn xử lý đối với các trường hợp hợp tác xã không đăng ký và tổ chức lại hoạt động theo Luật hợp tác xã năm 2012; các hợp tác xã giải thể nhưng vướng mắc về công nợ, vốn góp, không để các hợp tác xã tồn tại hình thức; rà soát vướng mắc trong việc cho hợp tác xã vay vốn để có hướng dẫn, xử lý cụ thể nhằm tạo điều kiện cho các hợp tác xã tiếp cận vay vốn theo chính sách quy định của Chính phủ.

Đồng thời, chỉ đạo, thực hiện xây dựng mô hình hợp tác xã và tổng kết mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu quả, liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị nhằm mục tiêu bảo vệ môi trường, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho thành viên; kịp thời phát hiện, biểu dương, khen thưởng nhân rộng, tổng kết các mô hình hợp tác xã hoạt động có hiệu quả, từng bước khẳng định kinh tế tập thể, hợp tác xã là nhân tố quan trọng, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.

Cùng với đó là nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước và hợp tác quốc tế đối với phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã, gắn liền với công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy đảng, chính quyền các cấp trong phát triển hợp tác xã: Kiện toàn, bổ sung vốn điều lệ quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã từ trung ương đến địa phương. Xây dựng mô hình thí điểm và tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong hợp tác xã được vay vốn từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước đối với hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định.

Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Luật Hợp tác xã; đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chất lượng toàn diện cán bộ và thành viên hợp tác xã, gắn với đề án đào tạo nghề cho nông thôn, theo hướng tạo nguồn cán bộ quản lý chuyên nghiệp cho hợp tác xã, đặc biệt là giám đốc hợp tác xã và tạo đội ngũ cán bộ kế cận trong thành viên hợp tác xã; bố trí lực lượng và thực hiện hỗ trợ hợp tác xã thực hiện kiểm toán để nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của các hợp tác xã...

Tại Chỉ thị, Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng Chiến lược phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã đến năm 2030 để có định hướng, chính sách tổng thể, lâu dài cho phát triển hợp tác xã; xây dựng Chương trình hỗ trợ phát triển kinh tế tập thể, hợp tác xã giai đoạn 2021 - 2025 và xây dựng đề án “Lựa chọn, hoàn thiện, nhân rộng mô hình hợp tác xã kiểu mới tại các địa phương trên cả nước giai đoạn 2021 - 2025”.

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng Kế hoạch xây dựng mô hình liên kết sản xuất và tiêu thụ giữa hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp với các doanh nghiệp; xây dựng Kế hoạch xây dựng mô hình hợp tác xã ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp và Đề án nâng cao trình độ quản lý sản xuất cho nguồn nhân lực phát triển hợp tác xã nông nghiệp bằng nguồn vốn xã hội hóa ở nước ngoài.

UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tập trung chỉ đạo, đề ra định hướng, triển khai cơ chế chính sách tập trung tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc tạo điều kiện cho kinh tế tập thể phát triển tại địa phương; xây dựng các mô hình hợp tác xã hoạt động hiệu quả, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi giá trị; các mô hình hợp tác xã nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao...

Quy định mới về gia công hàng hóa cho thương nhân nước ngoài

Nghị định 69/2018/NĐ-CP quy định thương nhân Việt Nam được nhận gia công hàng hóa hợp pháp cho thương nhân nước ngoài, trừ hàng hóa cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu; hàng hóa tạm ngừng xuất khẩu, tạm ngừng nhập khẩu.

Đối với hàng hóa thuộc danh mục đầu tư kinh doanh có điều kiện, chỉ các thương nhân đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định về sản xuất, kinh doanh mặt hàng đó mới được gia công xuất khẩu cho nước ngoài.

Đối với các mặt hàng nhập khẩu theo hình thức chỉ định thương nhân thuộc thẩm quyền quản lý của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, việc gia công hàng hóa thực hiện theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu theo giấy phép, thương nhân chỉ được ký hợp đồng gia công cho thương nhân nước ngoài sau khi được Bộ Công Thương cấp Giấy phép.

Hợp đồng gia công phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương theo quy định của Luật thương mại và phải tối thiểu bao gồm các điều khoản: 1- Tên, địa chỉ của các bên ký hợp đồng và bên gia công trực tiếp; 2- Tên, số lượng sản phẩm gia công; 3- Giá gia công; 4- Thời hạn thanh toán và phương thức thanh toán; 5- Danh mục, số lượng, trị giá nguyên liệu, phụ liệu, vật tư nhập khẩu và nguyên liệu, phụ liệu, vật tư sản xuất trong nước (nếu có) để gia công; định mức sử dụng nguyên liệu, phụ liệu, vật tư; định mức vật tư tiêu hao và tỷ lệ hao hụt nguyên liệu trong gia công; 6- Danh mục và trị giá máy móc, thiết bị cho thuê, cho mượn hoặc tặng cho để phục vụ gia công (nếu có); 7- Biện pháp xử lý phế liệu, phế thải, phế phẩm và nguyên tắc xử lý máy móc, thiết bị thuê, mượn, nguyên liệu, phụ liệu, vật tư dư thừa sau khi kết thúc hợp đồng gia công; 8- Địa điểm và thời gian giao hàng; 9- Nhãn hiệu hàng hóa và tên gọi xuất xứ hàng hóa; 10- Thời hạn hiệu lực của hợp đồng.

Nghị định quy định rõ thương nhân nhận gia công được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu theo quy định của pháp luật về thuế đối với hàng hóa tạm nhập khẩu theo định mức và tỷ lệ hao hụt để thực hiện hợp đồng gia công và đối với sản phẩm gia công xuất khẩu; được thuê thương nhân khác gia công; phải nộp thuế xuất khẩu theo quy định của Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với phần nguyên liệu, phụ liệu, vật tư mua trong nước; phải tuân thủ các quy định của pháp luật Việt Nam về hoạt động gia công xuất khẩu, nhập khẩu, sản xuất hàng hóa trong nước và các điều khoản của hợp đồng gia công đã được ký kết...

Danh mục và lộ trình thiết bị sử dụng năng lượng phải loại bỏ

Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã ký Quyết định số 24/2018/QĐ-TTg ban hành Danh mục và lộ trình phương tiện, thiết bị sử dụng năng lượng phải loại bỏ và các tổ máy phát điện hiệu suất thấp không được xây dựng mới.

Theo đó, từ ngày 10-7-2018, không cho phép nhập khẩu và sản xuất, kinh doanh các thiết bị có mức hiệu suất năng lượng không đáp ứng mức hiệu suất năng lượng tối thiểu trong tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) như: Bóng đèn huỳnh quang compact TCVN 7896:2008; bóng đèn huỳnh quang ống thẳng TCVN 8249:2009; tủ lạnh, tủ kết đông lạnh TCVN 7828:2013; máy điều hòa không khí không ống gió TCVN 7830:2015; máy giặt gia dụng TCVN 8526:2010; máy thu hình TCVN 9536:2012; nồi cơm điện TCVN 8252:2009; màn hình máy tính TCVN 9508:2012; máy biến áp phân phối TCVN 8525:2010;...

Không cho phép nhập khẩu, sản xuất và kinh doanh sau 2 năm kể từ ngày 10-7-2018 đối với các thiết bị có mức hiệu suất năng lượng không đáp ứng mức hiệu suất năng lượng tối thiểu trong TCVN như: Bóng đèn huỳnh quang compact TCVN 7896:2015; bóng đèn huỳnh quang ống thẳng TCVN 8249:2013; tủ lạnh, tủ kết đông lạnh TCVN 7828:2013; máy điều hòa không khí không ống gió TCVN 7830:2015; máy giặt gia dụng TCVN 8526:2013; máy thu hình TCVN 9536:2012; nồi cơm điện TCVN 8252:2015; màn hình máy tính TCVN 9508:2012; động cơ điện không đồng bộ ba pha roto lồng sóc TCVN 7540-1:2013;...

Từ ngày 10-7-2018, không cho phép xây dựng mới tổ máy phát điện bằng than, khí công nghệ lạc hậu, có hiệu suất tại thời điểm bắt đầu đưa vào vận hành thương mại thấp hơn hiệu suất quy định tương ứng với từng dải công suất của tổ máy theo quy định; không cho phép nhập khẩu thiết bị cũ, lạc hậu đối với các tổ máy phát điện có công suất nằm ngoài các dải công suất quy định; không phê duyệt chủ trương đầu tư các nhà máy nhiệt điện phát điện bằng than, khí đốt có hiệu suất năng lượng thấp hơn hiệu suất quy định tương ứng với dải công suất của tổ máy phát điện theo quy định./.