Quan hệ chiến lược Ấn Độ - ASEAN - Việt Nam hai thập niên đầu thế kỷ XXI và tầm nhìn đến năm 2030
TCCSĐT - Khu vực Đông Nam Á là trọng tâm đan xen, giao thoa quyền lợi cả trước mắt cũng như lâu dài không chỉ của các nước trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương mà còn của nhiều cường quốc lớn trên thế giới trong đó có Ấn Độ.
Nghiên cứu, tìm hiểu cục diện khu vực cùng những “tham vọng” chiến lược, sách lược và thực tiễn quá trình cạnh tranh, gia tăng ảnh hưởng của các nước này nhằm củng cố mối quan hệ với các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, từ đó phát triển và mở rộng tầm ảnh hưởng ra toàn khu vực châu Á sẽ mang đến cho người đọc cái nhìn toàn cảnh hơn đối với tiến trình phát triển của khu vực và thế giới.
Mục tiêu chiến lược và sách lược của Ấn Độ đối với ASEAN
Khu vực Đông Nam Á gồm 11 quốc gia độc lập có chủ quyền là Bruney, Campuchia, Đông Timo, Indonexia, Lào, Malaixia, Mianma, Philippin, Thái Lan, Việt Nam và Singapore, trong đó 10 nước (trừ Đông Timo) là thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN. Với hệ thống cảng biển, eo biển và đường hàng hải thuận tiện nhất từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương, Đông Nam Á trở thành cầu nối giữa hai châu lục Âu - Á, giữa Tây Nam Á, Trung Cận Đông, Bắc Phi với Đông Bắc Á và Bắc Mỹ. Vị trí địa - chiến lược quan trọng cùng nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú khiến Đông Nam Á sớm trở thành địa bàn tranh giành ảnh hưởng của nhiều cường quốc trên thế giới.
Với vị trí địa - chính trị đặc biệt, án ngữ tuyến đường biển nối liền các khu vực có tiềm lực kinh tế, chính trị và quân sự lớn như Đông Bắc Á, Trung Đông, Australia và một số quốc gia thuộc châu Á - Thái Bình Dương, khu vực Đông Nam Á đóng vai trò thiết yếu trong chiến lược phát triển của nhiều quốc gia. Hằng năm, nhiều hoạt động vận tải, buôn bán lớn trên thế giới đã diễn ra trên tuyến đường biển này như: Eo biển Malatca chiếm 1/3 các hoạt động thương mại và 1/4 nguồn cung cấp dầu lửa cho thế giới, mỗi năm có khoảng hơn 500.000 các loại tàu bè qua lại vùng biển Đông Nam Á (gấp đôi số lượng hoạt động ở kênh đào Xuy-ê và Panama), có khoảng 10 triệu thùng dầu được vận chuyển từ vịnh Pecxich qua vùng biển này để tới lãnh thổ của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc(1)… Đông Nam Á cũng là một thị trường lao động đầy tiềm năng, với hơn 600 triệu dân, đội ngũ công nhân kỹ thuật có trình độ chuyên môn khá cao trong khi đó giá nhân công rẻ hơn nhiều so với các vùng khác trên thế giới. Với lực hút hấp dẫn như vậy nên trong chiến lược hướng tới châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ và Trung Quốc đều chọn Đông Nam Á làm mục tiêu trọng điểm. Nga và Ấn Độ cũng ngày càng quan tâm hơn tới việc thiết lập vai trò và vị thế tại Đông Nam Á. Riêng đối với Ấn Độ, Đông Nam Á là một khu vực có vai trò rất quan trọng cả về mặt chiến lược lẫn sách lược.
Về lợi ích kinh tế: Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đã làm thay đổi một cách cơ bản các nền kinh tế lạc hậu và phụ thuộc ở Đông Nam Á, từ chỗ lệ thuộc vào phương Tây chuyển sang tự nghiên cứu và phát triển các kỹ thuật công nghệ thích ứng. Việc mở rộng cơ hội thương mại và đầu tư tại các nước có nền kinh tế mới chuyển đổi ở Đông Nam Á (như Việt Nam, Campuchia, Myanma…) đã và đang tạo ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp, nhà đầu tư đến từ các cường quốc kinh tế như Mỹ, Nhật, EU, Trung Quốc và Ấn Độ. Trong bối cảnh gia tăng cạnh tranh kết hợp với xu thế liên kết khu vực, nhất là sự trỗi dậy của Trung Quốc như “một công xưởng thế giới”, thì sự bổ sung giữa nền kinh tế Nhật Bản, Ấn Độ, Hàn Quốc với các nền kinh tế còn lại của Đông Nam Á có ý nghĩa chiến lược. Hơn nữa, sự khan hiếm về mặt nhiên liệu, năng lượng cũng là một bài toán khó cho các nước này, buộc các nước này phải tăng cường hợp tác năng lượng với các quốc gia có tiềm năng về nguồn dự trữ tài nguyên trong khu vực. Chính vì vậy, với những chính sách trở lại châu Á, chính sách quay về châu Á và chính sách hướng Đông, gần đây là Hành động hướng Đông… đang được người Mỹ, Nhật và Ấn Độ triển khai mạnh mẽ trên các diễn đàn và trong thực tiễn, nhằm không chỉ duy trì mà còn gia tăng lợi ích kinh tế, chính trị, an ninh chiến lược của các nước này trong khu vực và trên trường quốc tế.
Về an ninh - chính trị: Đông Nam Á được coi là bàn đạp cho mục tiêu trở thành cường quốc khu vực của nhiều quốc gia có thực lực trong đó có Ấn Độ; đồng thời các nước này coi quan hệ với ASEAN là khâu đột phá mở rộng ảnh hưởng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng như trên toàn thế giới. An ninh quốc gia của Ấn Độ, Nhật Bản và nhiều nước khác phụ thuộc rất lớn vào sự an toàn trên các tuyến đường biển quốc tế chảy qua lãnh hải của các nước Đông Nam Á. Không chỉ đảm nhận vai trò vận chuyển, xuất nhập khẩu hàng hóa, nhu yếu phẩm cần thiết cho đời sống và sản xuất của người dân, sự an toàn của các tuyến đường biển ở Đông Nam Á còn góp phần bảo đảm an ninh hàng hải mang tính chiến lược của các quốc gia, khu vực có lợi ích tại đây. Hơn thế nữa, với hơn 600 triệu dân và sản lượng kinh tế chung đạt hơn 2 nghìn tỷ USD, Ấn Độ hoàn toàn có thể tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia Đông Nam Á đối với hoạt động tranh cử vào vị trí ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Sau khi trật tự hai cực Xô - Mỹ sụp đổ, nắm lấy những thời cơ thuận lợi, Ấn Độ thực hiện thành công chính sách “hướng Đông” - một trong những cơ sở quan trọng nhất tạo nên vị thế và vai trò của Ấn Độ ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương hiện nay. Ấn Độ đã tạo dựng được mối quan hệ gần gũi với Mỹ, nỗ lực tiến tới bình thường hóa quan hệ với Pakistan, quan hệ thân thiện với Trung Quốc, đối thoại quan hệ với Nga, mở rộng ảnh hưởng tại Ấn Độ Dương và đạt được những vai trò nhất định trong khu vực Đông Nam Á. Với mục tiêu giành một ghế đại diện cho khu vực châu Á trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc khi tổ chức lớn nhất hành tinh này cải tổ, Ấn Độ đang thực hiện chiến lược vận động mạnh mẽ, thông qua chính sách hướng Đông và ngày nay là hành động hướng Đông, trong đó tập trung phát triển mối quan hệ hợp tác với các quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam nhằm nâng cao hơn vị thế và ảnh hưởng của nước này tại khu vực.
Về kinh tế: Năm 1935, nhà tư tưởng vĩ đại và cũng là người sáng lập nên nước Cộng hòa Ấn Độ G. Ne-ru đã nhận xét “Thái Bình Dương có khả năng thay thế Đại Tây Dương với tư cách là một trung tâm đầu não của thế giới trong tương lai”, đồng thời khẳng định “Tuy không nằm trong Thái Bình Dương nhưng Ấn Độ phải có được những ảnh hưởng quan trọng đó”(2). Xét về địa lý, tiến vào Thái Bình Dương qua eo biển Malacca là con đường đi sang phía Đông thuận lợi nhất của Ấn Độ. Đông Á cũng giàu có về nguyên liệu thô và năng lượng, những tài nguyên mà Ấn Độ rất “khát” cho sự phát triển đất nước trong tương lai. Yếu tố gần gũi về văn hóa cũng là tiền đề thuận lợi cho sự phát triển quan hệ hợp tác mọi mặt giữa Ấn Độ và Đông Nam Á. Ấn Độ tiến hành cải cách kinh tế (đầu thập niên 90 của thế kỷ XX) trong bối cảnh Mỹ và Tây Âu vẫn duy trì chính sách bảo hộ thương mại mạnh, do đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng tại Đông Á đã trở thành lực hút quan trọng đối với Ấn Độ.
Bước sang thế kỷ XXI, các nước Đông Nam Á đang có bước phát triển vượt bậc về kinh tế với chính sách kích thích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghệ cao, viễn thông, công nghệ thông tin, công nghiệp phần mềm... vốn là lĩnh vực thuộc ưu thế của Ấn Độ. Các nhà hoạch định kinh tế của Ấn Độ cho rằng, thông qua các cơ chế hợp tác với ASEAN, Ấn Độ có thể bảo đảm không bị cô lập khi mà các thỏa thuận mậu dịch mang tính khu vực đang trở thành xu thế chung. Xu thế này bao gồm việc liên kết với các nền kinh tế năng động tại Đông Á, Đông Nam Á. Trên thực tế, Ấn Độ hy vọng mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với ASEAN sẽ làm cầu nối giúp nước này hòa nhập vào một cộng đồng kinh tế lớn hơn bao gồm Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Thương mại trên biển của Ấn Độ gắn trực tiếp với những eo biển nằm ở khu vực Đông Nam Á như Sun-đa, Lom-bo, đặc biệt là eo biển Malacca, nơi có lượng tàu thuyền qua lại mỗi năm gần gấp đôi lượng tàu thuyền qua kênh đào Xuy-ê và gần gấp ba lần kênh đào Panama. Chú trọng quan hệ hợp tác với các quốc gia Đông Á sẽ giúp Ấn Độ bảo vệ các hoạt động thương mại trên biển, chống lại nạn cướp biển, buôn lậu ma túy tại khu vực Tam giác vàng. Trên thực tế, trong bối cảnh các quốc gia châu Á đang xích lại gần nhau, các cường quốc lớn trong và ngoài khu vực đang tìm mọi cách gia tăng ảnh hưởng về kinh tế và chính trị đối với Đông Á, sẽ là bất lợi nếu Ấn Độ đứng ngoài tiến trình này. Tăng cường quan hệ với ASEAN không chỉ mang lại những lợi ích trực tiếp về kinh tế và an ninh mà còn giúp Ấn Độ tranh thủ sự ủng hộ của các quốc gia Đông Nam Á cho vị trí Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc mà nước này đang tích cực theo đuổi, kiềm chế ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của Trung Quốc trong khu vực, phát huy vai trò to lớn hơn nữa tại châu Á - Thái Bình Dương và trên toàn thế giới. Với những lý do thuyết phục như trên, sẽ không ngạc nhiên khi Đông Á và Đông Nam Á là những khu vực được Ấn Độ lựa chọn nhằm thực hiện bước đột phá hội nhập vào châu Á - Thái Bình Dương thông qua chính sách hướng Đông và hành động hướng Đông của nước này.
Phân tích vị trí địa chính trị, địa kinh tế quan trọng của khu vực Đông Nam Á, cộng đồng ASEAN có thể thấy nhu cầu của Ấn Độ đối với khu vực này là rất lớn.
Thứ nhất, phát triển kinh tế trong khu vực Đông Nam Á là một lợi ích tiềm năng cho nền kinh tế của Ấn Độ. Khu vực mà năm 2012 có 90 triệu dân thuộc tầng lớp trung lưu và dự kiến sẽ tăng lên 400 triệu vào năm 2020. Do đó, đây sẽ là một thị trường hấp dẫn cho các nhà xuất khẩu Ấn Độ, trong khi chi phí lao động ở khu vực này thấp hơn so với Trung Quốc và đang khát khao thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để cải thiện kết cấu hạ tầng vốn đang còn nhiều yếu kém. Việc các nhà đầu tư đa quốc gia của Ấn Độ chuyển hướng từ nhiều khu vực khác sang Đông Nam Á sẽ giúp giảm bớt chi phí và sự phụ thuộc kinh tế của Ấn Độ vào các khu vực truyền thống.
Thứ hai, những nỗ lực của Ấn Độ trong việc hỗ trợ xây dựng năng lực cho các lực lượng hải quân và cảnh sát biển của các nước Đông Nam Á sẽ tạo thế cân bằng quyền lực nhất định ở Biển Đông, giúp giữ vững ổn định trong khu vực. Giống như nhiều nước, Ấn Độ cũng phụ thuộc nhiều vào tuyến đường biển huyết mạch - Biển Đông, do đó nền hòa bình tại vùng biển này là một trong những lợi ích chiến lược rất quan trọng của Ấn Độ.
Thứ ba, khu vực Đông Nam Á thực sự là nơi Ấn Độ có thể tìm kiếm vai trò chính trị tương xứng với sức mạnh kinh tế và quân sự, trở thành một “cường quốc” khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh đó, Chính phủ Ấn Độ, qua các nhiệm kỳ gần đây, đều xem việc phát triển quan hệ với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á, cộng đồng ASEAN, trong đó có Việt Nam là ưu tiên quan trọng trong chiến lược ngoại giao hướng Đông và hành động hướng Đông của mình.
Khái quát quan hệ chiến lược Ấn Độ - ASEAN những năm đầu thế kỷ XXI
Từ đầu những năm 90 của thế kỷ XX, những thay đổi của bối cảnh quốc tế và khu vực sau Chiến tranh Lạnh cùng với nhu cầu phát triển trong nước đã buộc Ấn Độ phải có những đột phá mới trong chính sách đối ngoại. Trước một thực tế rằng hầu hết các cường quốc thương mại đều là thành viên của các khối khu vực mậu dịch có tầm cỡ như EU, NAFTA và ASEAN, Ấn Độ mong muốn phát triển khối mậu dịch khu vực song tiến trình diễn ra rất chậm ở Nam Á. Sự bất lực của SAARC(3) trong việc thúc đẩy quan hệ kinh tế nội khu vực đã khiến Ấn Độ phải hướng về phía Đông để đi tìm các cơ hội bạn hàng mới. Chính sách hướng Đông là một nội dung cơ bản trong chiến lược ngoại giao mới của Ấn Độ đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đứng đầu trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ là Nhật Bản và các nước ASEAN.
Đông Nam Á nhận thức rằng Ấn Độ là một quốc gia hòa bình, muốn đóng góp tích cực trong các chiến lược của Đông Nam Á và ngày càng đảm nhiệm một vai trò lớn hơn trong khu vực. Hợp tác giữa Ấn Độ và ASEAN đã phát triển với tốc độ nhanh kể từ khi Ấn Độ bắt đầu công cuộc cải cách kinh tế và thực hiện chính sách hướng Đông vào những năm 1990. Năm 1995, Ấn Độ là một đối tác đối thoại đầy đủ tại hội nghị thượng đỉnh ASEAN-5 tại Bangkok (Thái Lan), năm 1996 trở thành thành viên của Diễn đàn khu vực ASEAN - ARF. Năm 2001, Ấn Độ và ASEAN đã thiết lập cơ chế "ASEAN+1"; năm 2005, Ấn Độ lại trở thành nước thành viên sáng lập Hội nghị Cấp cao Đông Á - EAS; Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh còn đề xuất ý tưởng "Khối cộng đồng kinh tế châu Á", kêu gọi ASEAN thiết lập thị trường chung với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ấn Độ.
Song song thúc đẩy hợp tác an ninh, kinh tế cũng là lĩnh vực được Ấn Độ rất quan tâm trong quan hệ với các nước ASEAN. Mất sáu năm đàm phán, cuối cùng Ấn Độ và ASEAN đã chính thức ký kết Hiệp định thương mại tự do (FTA) vào ngày 13-8-2009 tại Bangkok. Theo đó, các loại thuế đánh vào khoảng 4.000 mặt hàng điện tử, hóa chất, máy móc và dệt may (chiếm 80% lượng hàng hóa buôn bán giữa hai bên) sẽ được giảm dần và hướng tới loại bỏ hoàn toàn. Thỏa thuận đạt được có hiệu lực từ tháng 1-2010 là “một chiến thắng cho cả hai phía”. Mục tiêu đầy tham vọng mà hai bên đặt ra là tăng kim ngạch thương mại lên thêm 10 tỷ USD ngay trong năm đầu tiên.
Có thể khẳng định rằng, tăng cường quan hệ với ASEAN là trọng tâm chính sách “hướng Đông” của Ấn Độ ban hành từ năm 1991. Từ đối tác đối thoại theo ngành đến đối tác đối thoại toàn diện vào năm 1995, mối quan hệ ASEAN - Ấn Độ đã phát triển nhanh chóng. Việc Ấn Độ và ASEAN đã nâng cấp quan hệ lên thành đối tác chiến lược và hai bên thông qua Tuyên bố Tầm nhìn vào năm 2012 đã đánh dấu một quá trình phát triển quan trọng, hướng tới mối quan hệ đối tác bền vững vì hòa bình và thịnh vượng. Tuyên bố Tầm nhìn ASEAN - Ấn Độ được đánh giá là chứa đựng nhiều nội dung hợp tác toàn diện từ chính trị - an ninh, hợp tác văn hóa - xã hội và phát triển, tăng cường kết nối và xây dựng cấu trúc khu vực. Mối quan hệ chủ yếu tập trung vào hợp tác kinh tế, đối tác Ấn Độ - ASEAN đã phát triển thành một trong những đối tác phát triển nhanh nhất, năng động và toàn diện nhất của ASEAN. Hiện ASEAN và Ấn Độ có 26 cơ chế đối thoại thường xuyên trên nhiều lĩnh vực. Những năm gần đây, Ấn Độ và ASEAN đã tổ chức hơn 60 cuộc họp, các sự kiện cũng như thực hiện một số sáng kiến theo Kế hoạch hành động ASEAN - Ấn Độ giai đoạn 2010 - 2015. Ấn Độ đã hoàn tất thủ tục Ký Hiệp định tự do thương mại (FTA) về dịch vụ và đầu tư với ASEAN và đang chờ các nước thành viên ASEAN hoàn tất tiến trình này.
Quan hệ chiến lược Việt Nam - Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI và triển vọng những năm tới
Quan hệ giữa Việt Nam và Ấn Độ đã có từ lâu đời được hai vị lãnh tụ kiệt xuất là Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Jawaharlan Nehru đặt nền móng, trở thành giá trị và tài sản vô giá, được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp và đã trở thành nền tảng để Việt Nam - Ấn Độ có những bước đi chiến lược mới trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới đang có nhiều biến động phức tạp hiện nay.
Trên cơ sở mối quan hệ chính trị - ngoại giao đã được thiết lập, duy trì và củng cố theo thời gian phát triển đi lên của hai nước, quan hệ chiến lược Việt Nam - Ấn Độ tiếp tục được đẩy mạnh và chiếm vị trí nổi bật trong quan hệ hai nước. Những kết quả tốt đẹp trong quan hệ chính trị - ngoại giao giữa hai nước tạo tiền đề và là động lực thúc đẩy quan hệ trên các lĩnh vực khác như kinh tế - thương mại, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng phát triển ngày một sâu rộng, thực chất, hiệu quả hơn. Việt Nam hoan nghênh và chủ động ủng hộ Ấn Độ trong chủ trương tăng cường quan hệ với các nước Đông Á và Đông Nam Á, ASEAN. Trong các cuộc viếng thăm giữa hai nước, các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam đều nhấn mạnh rằng Ấn Độ có vai trò và ảnh hưởng quan trọng tại châu Á, sự phát triển mạnh mẽ của Ấn Độ sẽ góp phần tích cực vào việc xây dựng môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác và phát triển trong khu vực và trên thế giới. Trong chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá, Việt Nam coi Ấn Độ vừa như là một nước láng giềng thân thiện, vừa là một nước bạn bè truyền thống.
Đánh giá chung về quan hệ chiến lược Việt Nam - Ấn Độ, dù ở thời kỳ nào dưới sự lãnh đạo của chính đảng nào ở Ấn Độ, quan hệ chính trị - ngoại giao song phương Việt - Ấn luôn được đề cao và coi trọng. Điều này không chỉ khẳng định truyền thống quan hệ tốt đẹp giữa hai nước tiếp tục được củng cố và phát huy, mà còn cho thấy quan điểm tương đồng về nhiều lĩnh vực chiến lược của hai nước đang trên đà phát triển trong bối cảnh mới. Chính vì vậy, bất chấp những thay đổi nhanh chóng và phức tạp của tình hình thế giới và khu vực, hai bên vẫn đưa ra nhiều đánh giá tương đồng với nhau, luôn ủng hộ nhau và phối hợp tốt cùng nhau trong các diễn đàn, hội nghị, thể chế ở khu vực và quốc tế. Ấn Độ đã nhanh chóng ủng hộ Việt Nam gia nhập WTO, hai bên đã kết thúc đàm phán song phương vào tháng 8-2005. Đặc biệt, Việt Nam luôn ủng hộ Ấn Độ đối với chiến lược của nước này trong các vấn đề liên quan đến cải tổ Liên hợp quốc. Như vậy, quan hệ chiến lược Việt Nam - Ấn Độ đã không ngừng được củng cố, phát triển, góp phần quan trọng thúc đẩy quan hệ giữa hai nước trên các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư, quốc phòng, an ninh ngày càng phát triển tốt đẹp và hiệu quả hơn.
Năm 2014 là năm ghi dấu ấn đậm nét trong mối quan hệ song phương giữa hai nước Việt Nam - Ấn Độ với một loạt các chuyến viếng thăm và trao đổi cấp cao giữa hai bên. Ngay sau khi Chính phủ mới của Ấn Độ nhậm chức, Tổng thống Pranab Mukherjee đã tới thăm Việt Nam (9-2014) và sau đó Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng cũng đã tới thăm Ấn Độ (10-2014).
Việt Nam và Ấn Độ là những quốc gia đang phát triển và là các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao và ổn định của khu vực và thế giới trong nhiều năm qua. Cả hai nước đều đang có nhu cầu mở rộng thị trường, thu hút đầu tư từ bên ngoài để duy trì tốc độ tăng trưởng cao và ổn định của nền kinh tế. Do đó, Việt Nam và Ấn Độ sẽ thúc đẩy mạnh mẽ, sâu rộng và thực chất quan hệ đối tác chiến lược với nhau nhằm mở rộng thị trường xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ, thu hút đầu tư, trao đổi học tập kinh nghiệm… Có thể thấy quan hệ kinh tế - thương mại và đầu tư giữa Việt Nam và Ấn Độ trong thời gian qua vẫn còn khiêm tốn, chưa thực sự tương xứng với quan hệ chiến lược về chính trị - ngoại giao và tiềm năng hợp tác to lớn của hai nước. Vì thế, cả Việt Nam và Ấn Độ đều nhận thấy rằng, hai bên cần phải nỗ lực hơn nữa để khai thác và phát huy hiệu quả tiềm năng to lớn của mỗi nước, thúc đẩy hợp tác trên lĩnh vực kinh tế - thương mại, đầu tư tương xứng với mối quan hệ chiến lược về chính trị - ngoại giao tốt đẹp mà hai nước đã dày công xây dựng, vun đắp và củng cố.
Trong những năm tới đây, cả Việt Nam và Ấn Độ đều tiếp tục chú trọng chính sách đối ngoại rộng mở, song phương và đa phương để khai thác tối đa thời cơ, thành tựu và hạn chế tới mức thấp nhất những thách thức của quá trình toàn cầu hóa phục vụ phát triển kinh tế - xã hội và khẳng định vị thế của mỗi nước trên trường quốc tế. Hai nước sẽ tiếp tục thể hiện nhiều quan điểm đồng thuận của mình trong các vấn đề khu vực và quốc tế. Việt Nam sẽ tiếp tục ủng hộ Ấn Độ trong các mối quan hệ song phương và đa phương với các nước và các thể chế khu vực và quốc tế, đặc biệt là ủng hộ Ấn Độ trở thành Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc trong xu thế cải tổ tổ chức này. Ấn Độ cũng sẽ tiếp tục ủng hộ Việt Nam đẩy mạnh công cuộc cải cách và phát triển đất nước, ủng hộ Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đang dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ quốc tế; ủng hộ Việt Nam trong các diễn đàn khu vực và thế giới, công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường một cách toàn diện.
Tóm lại, quan hệ chiến lược Việt Nam - Ấn Độ đang được kế thừa từ mối quan hệ đặc biệt "truyền thống, hữu nghị, gắn bó" có những bước phát triển mạnh mẽ trong thời gian gần đây. Tuy quan hệ kinh tế thương mại, đầu tư hai bên chưa ngang tầm với quan hệ chính trị - ngoại giao và tiềm năng của hai nước, nhưng với chính sách "hướng Đông", “hành động hướng Đông” của Ấn Độ và đường lối đối ngoại rộng mở của Việt Nam, hiện đang mở ra một triển vọng phát triển tốt đẹp, toàn diện, thiết thực và sâu sắc trong quan hệ chiến lược song phương Việt Nam - Ấn Độ. Tinh thần này đã được Ấn Độ tiếp tục khẳng định và nhấn mạnh từ cuộc họp Ủy ban hỗn hợp Việt Nam - Ấn Độ lần thứ 13 (2-2007): Ấn Độ rất coi trọng quan hệ với Việt Nam trong các nước ASEAN. Việt Nam có vị trí đặc biệt và là một đối tác then chốt trong chính sách "hướng Đông" của Ấn Độ và sẽ giúp sức cùng nhau đưa quan hệ hai nước lên tầm đối tác chiến lược. Và thực tế ngày nay, với “hành động hướng Đông” của mình, Ấn Độ đang cùng với Việt Nam triển khai mạnh mẽ, hiệu quả và sâu rộng quan hệ đối tác chiến lược toàn diện; không chỉ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước mà còn thúc đẩy hòa bình, hợp tác và phát triển của khu vực và thế giới./.
-------------------------------------------------------
(1) PGS, TSKH. Trần Khánh (2009): “Đông Nam Á trong cạnh tranh chiến lược Trung - Nhật (Thập niên đầu thế kỷ XXI)”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 1, tr.15
(2) http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/india-look-east-policy
(3) SAARC: Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á
Sao Độc lập: Tái hiện, ngợi ca cuộc Cách mạng Tháng Tám vĩ đại và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc của dân tộc ta suốt 71 năm  (02/09/2016)
Sự kiện trong nước nổi bật trong tuần (từ 22-8 đến 28-8-2016)  (02/09/2016)
Sự kiện trong nước nổi bật trong tuần (từ 22-8 đến 28-8-2016)  (02/09/2016)
Thủ tướng yêu cầu bố trí nhân sự Phó Giám đốc Sở đúng quy định  (01/09/2016)
Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc tổ chức kỷ niệm Quốc khánh  (01/09/2016)
Chính phủ thảo luận việc sửa Bộ luật Hình sự năm 2015  (01/09/2016)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Tăng cường vai trò của tài chính vi mô cho phát triển “nông nghiệp, nông dân và nông thôn xanh” tại Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên