Nâng cao hiệu quả đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân và nông thôn

Vương Đình Huệ GS, TS, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính
16:56, ngày 06-05-2013
TCCS - Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi trọng và coi đó là điều kiện nền tảng để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội bền vững, ổn định chính trị, giữ vững an ninh, quốc phòng.

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính sách, pháp luật về đầu tư cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn (NN,ND,NT) trên tất cả các lĩnh vực và có bước đi phù hợp trong từng thời kỳ tạo điều kiện cho NN,ND,NT phát triển. Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa X, ngày 28-8-2008, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Nghị quyết số 26/NQ-TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, thể hiện tầm nhìn chiến lược trong công tác xây dựng và phát triển nông thôn; trong đó đề ra các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp toàn diện, cơ bản cho phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nước ta. Để tổ chức triển khai Nghị quyết trên, Chính phủ ra Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP, ngày 28-10-2008, ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X và Bộ tiêu chí nông thôn mới tại Quyết định số 491/QĐ-TTg, ngày 16-4-2009, của Thủ tướng Chính phủ. Đồng thời, ban hành Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 4-6-2010, về phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới nhằm phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh, quốc phòng trên địa bàn khu vực nông thôn trên cơ sở người dân đóng vai trò chủ thể, huy động cả hệ thống chính trị và toàn xã hội tham gia.

Kết quả đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn 

Trên cơ sở các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ về NN,ND,NT, Bộ Tài chính tham mưu trình Chính phủ và hướng dẫn các địa phương, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các bộ, ngành liên quan khác thực hiện ưu tiên đầu tư cho nông nghiệp và phát triển nông thôn, đồng thời ban hành các cơ chế, chính sách đối với việc đầu tư công cho NN,ND,NT. Những kết quả nổi bật về thực hiện đầu tư công cho lĩnh vực này giai đoạn 2006 - 2011 được thể hiện trên một số mặt sau đây:

Trong giai đoạn 2006 - 2011, nguồn vốn đầu tư công cho NN,ND,NT ngày càng được tăng cường và chú trọng, tổng vốn đầu tư công từ nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) và trái phiếu chính phủ (TPCP) là 432.787 tỷ đồng, bằng 49,67% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN và TPCP. Trong đó, đầu tư cho phát triển sản xuất các ngành nông, lâm, ngư nghiệp là 153.548 tỷ đồng, bằng 35,48% tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn; đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn là 279.240 tỷ đồng, bằng 64,52% tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn.

Thời kỳ trước khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X, tổng vốn đầu tư bố trí cho lĩnh vực NN,ND,NT trong 3 năm 2006 - 2008 là 146.575 tỷ đồng, bằng 45,2% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn vốn NSNN và TPCP. Sau khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X, mức đầu tư cho lĩnh vực này tăng lên rõ rệt: Năm 2009, tổng vốn đầu tư cho khu vực này là 90.006 tỷ đồng, tăng 45% so với năm 2008; năm 2010 là 94.754 tỷ đồng, tăng 5,3% so với năm 2009; năm 2011 là 100.615 tỷ đồng, tăng 6,7% so với năm 2010. Tính chung trong 3 năm, tổng vốn đầu tư công bố trí cho khu vực này là 285.465 tỷ đồng, bằng 52% tổng vốn đầu tư phát triển nguồn NSNN và TPCP, gấp 1,95 lần so với trước khi có Nghị quyết. Bên cạnh đó, hằng năm Nhà nước bố trí nguồn vốn dự phòng ngân sách trung ương để hỗ trợ các địa phương và nông dân, mỗi năm bố trí từ 7.000 tỷ đến 8.000 tỷ đồng, chủ yếu hỗ trợ các địa phương khắc phục hậu quả thiên tai, lụt bão, dịch bệnh...; hằng năm chi khoảng 8.000 tỷ đồng từ nguồn thu từ xổ số kiến thiết cho lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nhà nước còn hỗ trợ nông dân thông qua chính sách miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp (khoảng 2.000 tỷ đồng), miễn thu thủy lợi phí (khoảng 4.000 tỷ đồng).

Cùng với nguồn vốn đầu tư công phát triển NN,ND,NT, nguồn vốn ODA cho lĩnh vực này ngày càng được mở rộng và tăng cường. Trong giai đoạn 2006 - 2011, tổng giá trị vốn ODA đã được ký kết lên đến trên 26,897 tỷ USD, với hơn 94% là nguồn vốn vay ưu đãi, trong đó vốn đầu tư dành cho nông nghiệp, thủy lợi, lâm nghiệp và thủy sản kết hợp phát triển nông nghiệp nông thôn, xóa đói, giảm nghèo là 3,833 tỷ USD. Dư nợ cho vay theo cơ chế thương mại trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn tăng trưởng qua các năm với tốc độ bình quân gần 24%/năm. Vốn ODA cho NN,ND,NT trong giai đoạn 2006 - 2011 tập trung cho xóa đói, giảm nghèo và xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, tập trung vào hỗ trợ NSNN để thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia, như Chương trình 135, Chương trình tín dụng chuyên ngành đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn, lâm nghiệp, thủy lợi, xóa đói, giảm nghèo. 

Kết quả đầu tư công cho NN,ND,NT đã góp phần quan trọng tạo ra những thành tựu trong phát triển kinh tế - xã hội nói chung, những kết quả của NN,ND,NT nói riêng, thể hiện trên các mặt sau: 

- Nông nghiệp tiếp tục phát triển với nhịp độ khá cao theo hướng tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả, bảo đảm vững chắc an ninh lương thực quốc gia; xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tăng nhanh; trình độ khoa học - công nghệ được nâng cao hơn. 

- Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được tăng cường, nhất là thủy lợi, giao thông, góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất, từng bước làm thay đổi bộ mặt nông thôn.

- Các hình thức tổ chức sản xuất ở nông thôn tiếp tục được đổi mới; kinh tế nông thôn phát triển theo hướng phát triển công nghiệp, dịch vụ, ngành nghề, góp phần tạo việc làm và tăng thu nhập cho cư dân nông thôn.

- Đời sống vật chất, tinh thần của cư dân các vùng nông thôn ngày càng được cải thiện; công tác xóa đói, giảm nghèo đạt thành tựu to lớn. Công tác chăm sóc sức khỏe, khám chữa bệnh, phổ cập giáo dục, văn hóa, thông tin, thể thao được quan tâm và đẩy mạnh hơn.

- Hệ thống chính trị ở nông thôn được tăng cường; phát huy dân chủ cơ sở; vị thế giai cấp nông dân được nâng cao; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.

Bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được, hoạt động đầu tư công cho NN,ND,NT thời gian qua còn một số hạn chế, đó là:

- Nguồn lực đầu tư còn thiếu so với yêu cầu. Mặc dù Nhà nước đã chú trọng đầu tư cho khu vực NN,ND,NT, nhưng thực tế mới chỉ đáp ứng được 55% - 60% yêu cầu, vì vậy chưa phát huy hết tiềm năng trong nông nghiệp, nông thôn. Nguồn lực đầu tư vẫn chủ yếu dựa vào NSNN, việc huy động nguồn lực đầu tư của toàn xã hội còn hạn chế.

- Vốn ODA giải ngân thường chậm so với dự kiến, dẫn đến nhiều dự án phải kéo dài thời gian thực hiện; vốn đối ứng chưa được bố trí kịp thời; cơ chế quản lý đầu tư xây dựng còn chậm điều chỉnh để đáp ứng với những thay đổi của thị trường (giải phóng mặt bằng, thủ tục phê duyệt hoạt động mua sắm, đấu thầu, điều chỉnh giá, điều chỉnh định mức chi xây dựng cơ bản,...). 

- Còn tình trạng đầu tư dàn trải, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, một số nơi vẫn xảy ra sai phạm trong quản lý đầu tư. Qua giám sát cho thấy, một số công trình đạt hiệu quả thấp do bố trí vốn đầu tư chưa đáp ứng tiến độ theo kế hoạch được duyệt, đầu tư thiếu đồng bộ, thi công kéo dài. Chất lượng công tác khảo sát, thiết kế còn chưa đạt yêu cầu, ảnh hưởng tới chất lượng và hiệu quả công trình; khó khăn về giải phóng mặt bằng, giá cả nguyên vật liệu biến động thất thường...

- Kết cấu hạ tầng mặc dù đã được tăng cường đầu tư nhưng ở nhiều khu vực vẫn còn rất khó khăn. Hiện vẫn còn 149 xã trên hơn 9.200 xã chưa có đường ô-tô đến trung tâm xã. Hệ thống thủy lợi tại một số địa phương đầu tư còn thiếu đồng bộ. Năm 2011, cả nước vẫn còn 16 xã ở vùng hải đảo, biên giới, vùng cao chưa có điện. Hệ thống cấp nước sạch, nhà tiêu hợp vệ sinh còn thiếu, các công trình đầu mối về thủy lợi chưa đủ điều kiện ứng phó với biến đổi khí hậu, tốc độ đô thị hóa khu vực nông thôn còn chậm,... 

Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên, về khách quan, là do đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi nguồn lực rất lớn của Nhà nước cũng như toàn xã hội, bởi lĩnh vực nông nghiệp và địa bàn nông thôn rộng lớn, địa hình phức tạp, nhiều vùng sâu, vùng xa, vùng núi cao, sản xuất chưa phát triển, thu nhập của người dân còn thấp, đời sống khó khăn,... Trong khi đó, nguồn lực đầu tư của Nhà nước và toàn xã hội có hạn. Mặt khác, sản xuất nông nghiệp chịu rủi ro cao do sự tác động trực tiếp của thời tiết, biến động của môi trường, dịch bệnh,... Việc phòng, chống, khắc phục hậu quả là rất khó khăn, phức tạp nên khó thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Bên cạnh đó, do tác động của khủng hoảng, suy thoái kinh tế trong khu vực và trên thế giới, Nhà nước phải thực hiện một số chính sách, trong đó có việc cắt giảm đầu tư công,... nên việc huy động nguồn lực đầu tư cho NN,ND,NT những năm qua vẫn còn gặp khó khăn. Về chủ quan, có một số nguyên nhân: nhận thức của một bộ phận cán bộ, các cấp chính quyền về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của đầu tư cho NN,ND,NT chưa cao; vẫn còn tâm lý trông chờ, ỷ lại vào sự đầu tư của Nhà nước; trong quá trình thực hiện đầu tư, tình trạng thất thoát, lãng phí, kém hiệu quả vẫn xảy ra ở một số dự án do nhiều nguyên nhân,...

Định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X, và nội dung Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về vấn đề NN,ND,NT, trong thời gian tới định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư công cho NN,ND,NT cần dựa trên những quan điểm sau:

Một là, đầu tư cho NN,ND,NT là cơ sở và điều kiện cần thiết để phát triển NN,ND,NT toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả, bền vững, tạo nền tảng kinh tế - xã hội và chính trị vững chắc cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hai là, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển NN,ND,NT. Tăng cường mạnh mẽ đầu tư của Nhà nước và xã hội, ứng dụng nhanh các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến trong nông nghiệp, nông thôn, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí nông dân. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao nhất các nguồn lực trong xã hội, kể cả huy động vốn ODA và FDI đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn.

Ba là, phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn gắn với phát triển nhanh kinh tế nông thôn, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nông dân là những nội dung quan trọng để thực hiện tốt nhất các giải pháp phát triển NN,ND,NT theo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và Nghị quyết Đại hội XI của Đảng về vấn đề NN,ND,NT. 

Theo đó, thời gian qua, Bộ Tài chính tích cực phối hợp với các bộ, ngành, địa phương triển khai đồng bộ nhiều hoạt động, trong đó tập trung xây dựng và trình Chính phủ ban hành các cơ chế, chính sách có tác động quan trọng đối với phát triển NN,ND,NT. 

Để tiếp tục phát triển NN,ND,NT trong tình hình mới, một số giải pháp chủ yếu cần được tập trung thực hiện nhằm tăng cường, nâng cao hiệu quả đầu tư công cho lĩnh vực này như sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về đầu tư công cho NN,ND,NT. 

Bộ Tài chính tiếp tục phối hợp với các bộ, ngành và địa phương hoàn thiện dự án Luật Ngân sách nhà nước (sửa đổi) để báo cáo Chính phủ trình Quốc hội bảo đảm thời gian quy định theo hướng tăng chi đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn; thực hiện phân bổ NSNN bảo đảm hài hòa lợi ích của các địa phương có điều kiện phát triển công nghiệp với các địa phương thuần nông; tăng cường phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho các địa phương, kể cả cấp huyện, xã theo Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa X về NN,ND,NT.

Tiếp tục đổi mới phân cấp quản lý đầu tư công gắn việc quyết định đầu tư với việc phân bổ nguồn lực và cân đối vốn; thực hiện giao kế hoạch đầu tư trung hạn; sửa đổi hoàn thiện quy chế thẩm định dự án, thẩm định vốn, quyết định đầu tư, khắc phục tình trạng mất cân đối vốn như hiện nay; nghiên cứu sửa đổi cơ chế, tiêu chí phân bổ vốn đầu tư theo Quyết định số 60/2010/QĐ-TTg, ngày 30-9-2010, của Thủ tướng Chính phủ; bổ sung các cơ chế, chính sách đầu tư công cho NN,ND,NT thông qua quy chế phân bổ vốn đầu tư, bảo đảm đầu tư từ NSNN 5 năm giai đoạn 2011 - 2015 cao gấp 2 lần giai đoạn 2006 - 2010; 

Thứ hai, tăng cường NSNN đầu tư cho NN,ND,NT.

Ưu tiên bố trí NSNN thông qua các chương trình, dự án nhằm thúc đẩy các vùng nghèo, vùng khó khăn phát triển; đồng thời tạo cơ chế thu hút nguồn lực tài chính để tự phát triển cho các vùng có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội.

Thực hiện tăng chi đầu tư cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, điều tiết phân bổ NSNN bảo đảm lợi ích của các địa phương có điều kiện phát triển công nghiệp, cũng như các địa phương thuần nông, tăng cường phân cấp thu chi cho địa phương, kể cả cho cấp huyện và xã. 

Thực hiện hỗ trợ ngân sách trực tiếp cho hộ nông dân và địa phương theo diện tích trồng lúa để bảo đảm giữ diện tích trồng lúa khoảng 3,8 triệu héc-ta theo Nghị quyết của Quốc hội và Nghị định số 42/2012/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý, sử dụng đất trồng lúa.

Có chính sách để các địa phương chủ động bố trí cân đối ngân sách địa phương cho phát triển nông nghiệp, nông thôn, trong đó ưu tiên bố trí vốn cho đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông nông thôn, thủy lợi, tăng cường cho công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư,...

Phân bổ vốn NSNN tập trung, ưu tiên cho các công trình trọng điểm về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội có tác động lớn đến phát triển các ngành, lĩnh vực, địa phương; đặc biệt là ưu tiên đầu tư cho các lĩnh vực xã hội, các huyện có tỷ lệ hộ nghèo cao; các xã, thôn/bản đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.

Tăng cường việc công khai quá trình phân bổ vốn NSNN thông qua các quy định về nguyên tắc, tiêu chí, định mức phân bổ vốn đầu tư; chú trọng mở rộng phân cấp, phân quyền quản lý đầu tư công, phân định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, của từng cấp, ngành trung ương đến địa phương và chủ đầu tư trong việc sử dụng nguồn vốn đầu tư công; tăng cường phân cấp cho các tỉnh thực hiện làm chủ đầu tư một số công trình giao thông, thủy lợi trọng điểm.

Thứ ba, tập trung nguồn vốn TPCP cho các dự án phát triển giao thông nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hoàn thành cơ bản hệ thống thủy lợi. Bộ Tài chính phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư tập trung cho các dự án về giao thông liên vùng, miền; các tuyến đường ra biên giới, đường đến trung tâm các cụm xã, nhất là các xã biên giới, vùng sâu, vùng xa, kiên cố hóa trường học, lớp học, cơ sở chữa bệnh tuyến huyện... Bố trí nguồn vốn TPCP để phấn đấu đến năm 2015 hoàn thành cơ bản hệ thống thủy lợi trên toàn quốc.

Thứ tư, tiếp tục dành nguồn vốn tín dụng ưu đãi đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn thông qua chương trình kiên cố hóa kênh mương, đường giao thông nông thôn, kết cấu hạ tầng nuôi trồng thủy sản và kết cấu hạ tầng làng nghề nông thôn; đẩy mạnh phát triển mạng lưới tín dụng nông thôn, tăng thêm các điểm giao dịch của ngân hàng thương mại trên địa bàn nông thôn. Khuyến khích các ngân hàng, tổ chức tín dụng cho vay vốn với cơ chế ưu đãi đối với lĩnh vực NN,ND,NT. Tăng mức cho vay vốn phát triển sản xuất, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác hải sản, phát triển chăn nuôi, sản xuất muối, cải tạo vườn tạp và người trồng lúa. 

Thứ năm, tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi về thu tiền sử dụng đất, về thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm khuyến khích đầu tư, nhất là các dự án đầu tư áp dụng công nghệ cao, công nghệ chế biến nông sản thực phẩm sau thu hoạch, dự án đầu tư vào các vùng khó khăn, vùng đặc biệt khó khăn phát triển sản xuất, kinh doanh, khuyến khích xuất khẩu. 

Thứ sáu, đổi mới mạnh mẽ cơ chế, chính sách để huy động cao nhất các nguồn lực trong xã hội, kể cả huy động vốn ODA và FDI đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Tiếp tục có chính sách ưu đãi, khuyến khích, tạo cơ chế, động lực thu hút các thành phần kinh tế đầu tư cho NN,ND,NT. Nhân rộng, phổ biến các mô hình xã hội hóa đầu tư, mô hình quản lý các công trình hạ tầng có hiệu quả, bền vững cho các vùng nông thôn.

Nhà nước hỗ trợ một phần và có cơ chế huy động kinh phí để thực hiện duy tu, bảo dưỡng công trình nông nghiệp, nông thôn. Có cơ chế đẩy mạnh xã hội hóa, huy động nguồn lực xã hội để đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng nông nghiệp, nông thôn. Tạo điều kiện để các địa phương chủ động kêu gọi triển khai các hình thức đầu tư BT, BOT, PPP.

Tập trung đầu tư hoàn thiện hệ thống thủy lợi, tăng cường đầu tư phát triển đồng bộ hệ thống giao thông nông thôn, kết nối với đầu mối giao thông chung của cả nước và các trung tâm kinh tế lớn; phát triển hạ tầng điện, bảo đảm cung cấp đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt khu vực nông thôn.

Thứ bảy, tiếp tục hỗ trợ kinh phí từ ngân sách trung ương, ngân sách địa phương để triển khai mạnh mẽ, sâu rộng chủ trương thí điểm bảo hiểm nông nghiệp nhằm hỗ trợ cho người sản xuất nông nghiệp chủ động khắc phục và bù đắp thiệt hại tài chính do hậu quả của thiên tai, dịch bệnh gây ra, góp phần bảo đảm ổn định an sinh xã hội nông thôn, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phát triển*.

----------------------------------------

* Tính đến đầu tháng 6-2012, thí điểm bảo hiểm nông nghiệp đã triển khai đến 54.034 hộ, trong đó số hộ nghèo là 49.720 hộ ở các tỉnh Nghệ An, Đồng Tháp, Thái Bình, Vĩnh Phúc, Sóc Trăng, Hà Tĩnh, Nam Định, Trà Vinh. Tổng doanh thu phí bảo hiểm khoảng 28 tỷ đồng, bảo hiểm cho 62.998 ha lúa, 1.700 con bò, 78.800 con lợn và 621.000 gia cầm; tổng diện tích mặt nước thủy sản tham gia bảo hiểm là 59,2 ha