TCCSĐT - Được triển khai từ năm 2009, Đề án “Kiểm soát dân số các vùng biển, đảo và ven biển” (Đề án 52) đã từng bước khẳng định được ý nghĩa và vai trò quan trọng trong công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS - KHHGĐ) ở tỉnh Quảng Ninh nói chung và huyện đảo Cô Tô nói riêng. Các chương trình của Đề án được thực hiện khá đồng bộ, có hiệu quả. Nhờ vậy, người dân trên địa bàn huyện đảo đã được tiếp cận với nhiều dịch vụ thiết thực do Đề án cung cấp.

Công tác tuyên truyền cho Đề án 52 được đẩy mạnh

Cô Tô ở về phía đông của huyện đảo Vân Đồn, có diện tích 46,2 km², dân số hơn 4.985 người. Ba năm qua, từ khi Đề án 52 được triển khai thực hiện, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình  (DS - KHHGĐ) luôn được chú trọng. Năm 2012, Trung tâm DS - KHHGĐ huyện đã chủ động tham mưu, đề xuất với cấp ủy đảng, chính quyền ban hành các văn bản chỉ đạo về công tác DS - KHHGĐ như: Kế hoạch hành động thực hiện chiến lược dân số - sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 - 2020; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị và cơ sở triển khai; Kế hoạch tổ chức Tháng hành động quốc gia về dân số và kỷ niệm ngày Dân số Việt Nam 26-12-2012; Kế hoạch tăng cường truyền thông với lồng ghép cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em - KHHGĐ của đội y tế lưu động thuộc Đề án 52; Kế hoạch triển khai mô hình can thiệp, giảm thiểu mất cân bằng giới tính khi sinh; Kế hoạch triển khai mô hình chăm sóc sức khỏe cho các bà mẹ khi mang thai, hỗ trợ khi sinh và sau sinh đối với các bà mẹ có nguy cơ cao đến sự mang thai, sự phát triển và chất lượng bào thai; Kế hoạch  triển khai mô hình tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân,...

Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đề án 52 là  công tác truyền thông, tư vấn và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em - KHHGĐ. Năm 2012, Trung tâm DS - KHHGĐ huyện đã xây dựng và tổ chức triển khai kế hoạch truyền thông, phối hợp với đài truyền thanh truyền hình huyện, cùng các ngành thành viên sâu rộng nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về chiến lược dân số như Nghị định số 20/2010/NĐ-CP ngày 8-3-2010 của Thủ tướng Chính phủ Quy định chi tiết thi hành pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số; Nghị định số 18/2011/NĐ-CP về sửa đổi khoản 6 Điều 2 Nghị định số 20/2010/NĐ-CP; Chiến lược Dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020; Kế hoạch hành động của tỉnh Quảng Ninh thực hiện Chiến lược dân số - sức khỏe sinh sản giai đoạn 2011 - 2020. Đặc biệt, Hội đồng nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã ra các Nghị quyết số 58/2012/NQ-HĐND ngày 11-7-2012 về quy định chính sách hỗ trợ người trong độ tuổi sinh đẻ tự nguyện thực hiện các biện pháp đình sản và hỗ trợ các xã phường thị trấn trong 2 năm liền không có người sinh con thứ 3 trở lên; Nghị quyết số 20/2008/NQ-HĐND ngày 12-12-2008 về một số biện pháp, cơ chế, chính sách thực hiện công tác Dân số - KHHGĐ đến năm 2010 và những năm tiếp theo cùng với cộng tác viên, tuyên truyền mạnh mẽ thực hiện triển khai Đề án Kiểm soát dân số vùng biển, đảo và ven biển ở huyện đảo Cô Tô, còn triển khai tốt việc hướng dẫn, tập huấn cho cán bộ Dân số - KHHGĐ cho tất cả các xã, thị trấn trên địa bàn huyện và duy trì việc tuyên truyền để chuyển đổi nhận thức, hành vi về DS - KHHGĐ.

Những ngày lễ Quốc tế phụ nữ (8-3), ngày Gia đình Việt Nam (28-6), ngày Dân số Thế giới (11-7), Tháng hành động quốc gia về Dân số và kỷ niệm ngày Dân số Việt Nam (26-12),… được tạo các điểm nhấn với nhiều hình thức phong phú như: tuyên truyền, cổ động trực tiếp và qua hệ thống truyền thanh ở xã, khẩu hiệu, mít tinh, băng rôn, phát sách báo và tờ rơi… tích cực tư vấn và cấp phát các dịch vụ KHHGĐ kịp thời, bảo đảm việc sử dụng đạt hiệu quả. Trạm y tế các xã, thị trấn phối hợp với Ban Văn hóa - Thông tin liên tục đưa tin về các hoạt động dân số trên hệ thống loa truyền thanh của xã; viết bài đăng trên báo địa phương chuyên mục Dân số và hạnh phúc. Đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, theo dõi và quản lý các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ, đặc biệt tư vấn cho đối tượng mang thai con thứ 3 trở lên đến các cơ sở y tế để đình chỉ thai nghén kịp thời.

Công tác  Dân số - Kế hoạch hóa gia đình

Nhờ có sự vào cuộc nhiệt tình của các ngành, đoàn thể tại địa phương nên Đề án 52 thu hút được đông đảo nhân dân tham gia hưởng ứng. Trong nhiều hoạt động của Đề án, mô hình phòng chống bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản/lây truyền qua đường tình dục, phòng ngừa mang thai ngoài ý muốn, phá thai an toàn trên địa bàn,... đã nâng cao được nhận thức, kỹ năng thực hành và chuyển đổi  hành vi cho phụ nữ.

Trung tâm DS-KHHGĐ phối hợp với Trung tâm Y tế huyện, Bệnh viện Quân y 7 (Quân khu 3) tổ chức tư vấn, khám sức khỏe cho các bà mẹ mang thai và trẻ em tại các xã, thị trấn; cấp phát các phương tiện tránh thai lâm sàng và phi lâm sàng đầy đủ, thuận tiện đến cộng đồng dân cư, nhất là ở các địa bàn vùng sâu, vùng xa… Công tác thu thập báo cáo, thống kê số liệu, cập nhật các thông tin kiểm soát biến động về DS - KHHGĐ được thực hiện chặt chẽ ở các xã, thị trấn từ cập nhật thông tin vào sổ hộ gia đình của cộng tác viên đến tổng hợp báo cáo thống kê của cán bộ DS - KHHGĐ huyện và kho dữ liệu điện tử, chủ động phối hợp với Trung tâm Y tế, Chi cục Thống kê đối chiếu, rà soát số liệu phục vụ công tác tổng hợp, phân tích số liệu DS - KHHGĐ để nắm vững hiệu quả thực hiện Đề án.

Sau gần 4 năm thực hiện công tác DS - KHHGĐ trên địa bàn các xã vùng biển của huyện đảo Cô Tô đã có nhiều kết quả khả quan. Tỷ lệ sinh và tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên giảm đáng kể; tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại và số người tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em, chăm sóc sức khỏe sinh sản, KHHGĐ tăng đều so với những năm trước,... Việc nâng cao chất lượng dân số sau sinh được đẩy mạnh. Đáng chú ý là các xã của huyện đạo Cô Tô đã chú trọng duy trì các loại hình tư vấn, kiểm tra sức khỏe, nhằm phát hiện yếu tố nguy cơ cao ảnh hưởng trực tiếp đến thai nhi, phụ nữ mang thai được khám thai, tiêm phòng uốn ván, cấp viên sắt miễn phí, tư vấn, cung cấp kiến thức làm mẹ an toàn.

Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác Dân số - KHHGĐ ở huyện đảo Cô Tô cũng đang gặp những khó khăn, trở ngại: quần đảo Cô Tô có khoảng hơn 50 đảo, đá lớn nhỏ, đi lại còn khó khăn. Bên cạnh đó, là đội ngũ cán bộ hầu hết đều mới, tuổi đời còn trẻ chưa có kinh nghiệm thực tiễn nên trong quá trình triển khai hoạt động còn bỡ ngỡ và chưa chủ động trong công việc. Chính sách đãi ngộ cộng tác viên dân số còn quá thấp. Nguồn kinh phí đầu tư cho Chương trình dân số chưa phù hợp với yêu cầu thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ đặt ra, nhất là từ sau khi triển khai thực hiện Đề án 52. Vì vậy, các xã, thị trấn trên địa bàn huyện đảo Cô Tô cần tăng cường hoạt động và kiện toàn tổ chức bộ máy trong cơ cấu vùng và mở rộng thêm cộng tác viên dân số để thực hiện tốt các mục tiêu, chỉ tiêu DS - KHHGĐ của địa phương giai đoạn 2011 - 2015 và những năm tiếp theo. Mục tiêu đặt ra là: từng bước nâng cao chất lượng dân số, phấn đấu tiếp tục giảm tỷ suất sinh 0,7%o và giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên là 1,0% trong các năm tiếp theo so với mức năm 2012. Phấn đấu để các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ chấp nhận và áp dụng các biện pháp tránh thai đạt tỷ lệ 0,4%.

Các giải pháp đặt ra là cần sự quan tâm hơn nữa của các cấp ủy Đảng, chính quyền từ huyện đến cơ sở; sự quan tâm của các ban, ngành đoàn thể, các tổ chức kinh tế - xã hội, các cán bộ trong hệ thống làm công tác DS- KHHGĐ. Cần vận dụng các quy định về DS - KHHGĐ kịp thời, phù hợp với điều kiện cụ thể trong mỗi giai đoạn. Coi công tác DS - KHHGĐ là một bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở các cấp; là nội dung trọng tâm trong chương trình công tác của chính quyền và các ngành, đoàn thể. Đưa chỉ tiêu về dân số thành một trong các chỉ tiêu pháp lệnh về kinh tế - xã hội trong kế hoạch hằng năm; 5 năm và từng giai đoạn của địa phương.

Xây dựng Quy định về thực hiện chính sách dân số nhằm giảm tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên, nâng cao chất lượng dân số; động viên khuyến khích các địa phương, tổ chức, cá nhân thực hiện tốt chính sách dân số và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm chính sách dân số, nhất là đối tượng sinh con thứ 3 trở lên trong cán bộ, công chức, viên chức. Tổ chức quản lý, kiện toàn củng cố và ổn định  hệ thống tổ chức làm DS - KHHGĐ từ huyện xuống xã, thị trấn; kiện toàn Ban chỉ đạo công tác DS - KHHGĐ huyện, xã; nâng cao năng lực hoạt động, vai trò phối hợp liên ngành trong công tác DS - KHHGĐ. Tăng cường mạng lưới cộng tác viên ở cơ sở cả về số lượng và chất lượng; chú trọng đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ, quan tâm đến chế độ chính sách cho cán bộ làm cộng tác viên. Song song đó là tăng cường và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến pháp luật, chính sách về dân số; kiến thức về bảo vệ, chăm sóc sức khỏe xây dựng hạnh phúc gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản; giảm tình trạng nạo, phá thai trước hôn nhân. Tuyên truyền giáo dục các biện pháp phòng ngừa, hạn chế tối đa các phương pháp lựa chọn giới tính thai nhi. Coi trọng tuyên truyền tới các nhóm đối tượng và địa bàn đặc thù: các vùng có mức sinh và sinh con thứ 3 trở lên cao và vùng khó khăn về kinh tế - xã hội,… Nâng cao chất lượng dân số thông qua nâng cao chất lượng giáo dục, chăm sóc sức khỏe cho trẻ em, phát hiện sớm và điều trị kịp thời dị tật bẩm sinh thời kỳ bào thai và sơ sinh; nâng cao nhận thức cũng như chuyển đổi hành vi của cộng đồng về thực hiện pháp luật, chính sách DS - KHHGĐ. Tiếp tục tổ chức thực hiện các mô hình, dự án, đề án đang triển khai, mở  rộng và xây dựng mới các mô hình nhằm giảm tỷ lệ chết, tỷ lệ bệnh tật, tăng tuổi thọ bình quân sống khỏe mạnh của người dân.

Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ, bảo đảm cho người dân được tư vấn đầy đủ và thuận lợi về KHHGĐ và sức khỏe sinh sản, có khả năng sinh con và quyết định thời điểm sinh con, khoảng cách giữa hai lần sinh trên cơ sở được cung cấp các thông tin và được hưởng các dịch vụ an toàn, thuận tiện và hiệu quả./.