TCCSĐT - Mùa đông - xuân là thời điểm thuận lợi cho nhiều bệnh lây nhiễm bùng phát, trong đó 3 loại bệnh có nguy cơ cao lây lan ngoài cộng đồng là tay chân miệng, sởi và sốt xuất huyết. Các bệnh này đang ghi nhận tại nhiều tỉnh thành trên cả nước và có xu hướng gia tăng.

Chiều 09-10, Bộ Y tế tổ chức họp báo thông tin về tình hình dịch bệnh cũng như hướng dẫn các biện pháp phòng, chống dịch bệnh, cách chăm sóc và điều trị bệnh nhân ngay tại nhà.

Bệnh tay chân miệng

Phó Cục trưởng Cục Y tế dự phòng (Bộ Y tế) Đặng Quang Tấn cho biết, từ đầu năm đến nay, cả nước đã ghi nhận 61.821 trường hợp mắc tay chân miệng, trong đó có 29.324 trường hợp nhập viện và 6 trường hợp tử vong tại 5 tỉnh, thành phía Nam. Có một số tỉnh, thành phố ghi nhận số mắc tích lũy cao và gia tăng nhanh trong các tuần gần đây, như Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương, Đồng Tháp, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Đà Nẵng, Ninh Thuận, Quảng Ngãi, Tây Ninh và Hà Nội.

Theo lãnh đạo Cục Y tế dự phòng, số ca mắc chủ yếu ở các tỉnh phía Nam, chiếm 77,6%; miền Bắc chiếm 10,6%; miền Trung chiếm 10,1% và Tây Nguyên chiếm 1,7%. Đặc biệt, số ca mắc chủ yếu ở trẻ dưới 10 tuổi (chiếm 99,5%), trong đó hay gặp ở nhóm từ 1-5 tuổi, tuổi trẻ đi nhà trẻ và mẫu giáo (chiếm 79%) và dưới 1 tuổi (chiếm 17%).

Bệnh tay chân miệng là bệnh nhiễm virus nhẹ, dễ lây lan phổ biến ở trẻ nhỏ dưới 10 tuổi, với dấu hiệu đặc trưng là các vết loét ở miệng, phát ban ở bàn tay, bàn chân. Nguyên nhân gây bệnh tay chân miệng là virus coxsackievirus A16 và enterovirus 71.

Ăn uống là nguồn lây lan chính của nhiễm trùng coxsackievirus và bệnh tay chân miệng. Bệnh lây lan qua tiếp xúc trực tiếp với người bị nhiễm bệnh: tiết dịch mũi hoặc dịch họng, nước bọt, chất lỏng từ mụn nước, ho hoặc hắt hơi.

Khi bị tay chân miệng, trẻ có các triệu chứng như sốt, viêm họng, cảm thấy khó chịu, đau, đỏ giống như vảy trên lưỡi, nướu, bên trong má, chán ăn. Ngoài ra, bệnh nhi còn phát ban đỏ, không ngứa nhưng đôi khi bị phồng rộp trên lòng bàn tay, bàn chân.

Khoảng thời gian thông thường từ nhiễm trùng ban đầu đến lúc bắt đầu có dấu hiệu bệnh (thời gian ủ bệnh) là từ 3 đến 6 ngày. Sốt là dấu hiệu đầu tiên của bệnh tay chân miệng, sau đó sẽ có triệu chứng đau họng và khó chịu. Từ 1 đến 2 ngày sau khi sốt, các vết loét có thể phát triển ở miệng hoặc cổ họng. Phát ban ở tay và chân xảy ra trong vòng từ 1 đến 2 ngày.

Bệnh tay chân miệng sẽ biến mất sau 7 đến 10 ngày, chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và vaccine dự phòng. Sau khi khỏi bệnh, virus vẫn có thể ở lại trong cơ thể của trẻ trong nhiều ngày hoặc vài tuần. Cần chủ động triển khai các biện pháp dự phòng như rửa tay bằng xà phòng, thực hiện tốt vệ sinh ăn uống, không cho trẻ tiếp xúc với trẻ bị bệnh, lau rửa đồ chơi, dụng cụ học tập...

Mặc dù hiếm gặp, bệnh tay chân miệng nếu không được điều trị kịp thời, có thể gây biến chứng nghiêm trọng như viêm màng não, viêm não, đe dọa đến tính mạng.

Bệnh sởi

Từ đầu năm đến nay, cả nước ghi nhận 2.942 trường hợp sốt phát ban tại 51 tỉnh, thành phố, trong đó 1.093 trường hợp mắc sởi dương tính, ghi nhận 1 trường hợp tử vong tại Hưng Yên (bệnh nhân có bệnh lý nền viêm phổi kéo dài). So với cùng kỳ năm 2017, số mắc sốt phát ban tăng 10,2 lần. Các ca mắc sởi lẻ tẻ, tản phát, không thành ổ dịch lớn.

Các tỉnh có số mắc sốt phát ban và sởi dương tính cao như: Hà Nội, Lào Cai, Điện Biên, Thanh Hóa, Sơn La và Quảng Ninh. Độ tuổi mắc chủ yếu ở nhóm trẻ dưới 9 tháng tuổi có 628 trường hợp mắc (chiếm 21,4%) và từ 1đến 4 tuổi có 1.106 trường hợp (37,8%). Trong số này, có 399 trường hợp đã được tiêm chủng (chiếm 13,6%), còn lại phần lớn là các trường hợp không được tiêm chủng và không rõ tiền sử tiêm chủng.

Bệnh sởi do virus sởi thuộc nhóm Paramyxovirus gây nên. Đây là loại virus có sức chịu đựng yếu, dễ bị tiêu diệt bởi các thuốc sát khuẩn thông thường, ánh sáng mặt trời… Virus sởi tồn tại ở họng và máu bệnh nhân từ cuối thời kỳ ủ bệnh đến sau khi phát ban một thời gian ngắn.

Bệnh rất dễ lây lan qua đường hô hấp, khi bệnh nhân ho, hắt hơi, nói chuyện. Virus sởi có thể tồn tại trong môi trường vài giờ. Khi đã xâm nhập vào cơ thể, virus sởi sẽ nhanh chóng sinh sôi trong vòm họng, phổi trước khi lây lan ra toàn bộ cơ thể.

Triệu chứng của bệnh sởi xuất hiện khoảng từ 10 đến 14 ngày sau khi tiếp xúc với siêu vi khuẩn này. Dấu hiệu thường thấy là sốt, ho khan, sổ mũi, viêm họng, viêm kết mạc, các đốm trắng nhỏ bên trong má, phát ban da thành những đốm lớn. Những yếu tố nguy cơ gây bệnh sởi bao gồm người chưa được tiêm chủng. Ngoài ra, những người thiếu vitamin A có nhiều khả năng bị bệnh sởi và biến chứng nặng hơn.

Virus sởi phá hủy lớp biểu mô niêm mạc, hệ thống miễn dịch, làm giảm lượng vitamin A. Vì vậy, người bệnh có nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm khác như viêm tai, viêm phế quản, viêm thanh quản, viêm phổi, viêm não. Hiện, bệnh chưa có thuốc đặc trị, nên chủ yếu là điều trị triệu chứng, chăm sóc, phòng ngừa biến chứng.

Khi phát hiện có các dấu hiệu sốt, ho, chảy nước mũi, phát ban, cha mẹ cần sớm đưa trẻ đến các cơ sở y tế gần nhất để kịp thời khám, điều trị phòng ngừa các biến chứng, diễn biến nặng của bệnh.

Bệnh sốt xuất huyết

Đối với sốt xuất huyết Dengue, bệnh đang lưu hành ở hầu hết các tỉnh thành phố, tập trung chủ yếu tại các tỉnh miền Nam và miền Trung. Bệnh có tính chất chu kỳ bùng phát từ 4 - 5năm/lần, dịch thường gia tăng vào mùa mưa, miền Bắc vào khoảng tháng 4 đến tháng 10, miền Nam vào khoảng tháng 4 đến tháng 11, trung bình mỗi năm ghi nhận khoảng 100 nghìn trường hợp mắc, có khoảng 100 trường hợp tử vong.

Tích luỹ 9 tháng đầu năm 2018, cả nước ghi nhận 67.414 trường hợp mắc tại 62/63 tỉnh, thành phố, trong đó có 11 trường hợp tử vong tại: Bình Dương (2), Đồng Nai (2), Bình Phước, Cà Mau, Khánh Hòa, An Giang, Bình Định, Trà Vinh và Thành phố Hồ Chí Minh.

Trong thời gian tới có thể tiếp tục ghi nhận các trường hợp mắc bệnh rải rác tại các địa phương. Thời điểm bắt đầu từ mùa mưa (từ tháng 5 đến tháng 11) ghi nhận số mắc gia tăng theo thống kê hàng năm, bệnh chưa có thuốc điều trị đặc hiệu và vaccine chưa được sử dụng tại Việt Nam.

Sốt xuất huyết là bệnh do virus Dengue gây ra. Đây là bệnh truyền nhiễm cấp tính và lây lan chủ yếu do loại muỗi vằn hút máu từ người mắc bệnh truyền sang người lành. Nó không lây lan trực tiếp từ người sang người.

Dấu hiệu của sốt xuất huyết bao gồm sốt cao đột ngột, nhức đầu nặng, đau nhức mắt, đau khớp, cơ bắp, mệt mỏi, buồn nôn, nôn mửa, phát ban da (xuất hiện từ 2 đến 5 ngày sau khi bị sốt), chảy máu nhẹ (chảy máu mũi, nướu răng hoặc dễ bầm tím).

Các triệu chứng xuất hiện từ 4 đến 6 ngày sau khi nhiễm bệnh và kéo dài đến 10 ngày. Biến chứng nghiêm trọng của sốt xuất huyết là tổn thương bạch huyết, mạch máu, chảy máu mũi, nướu răng nhiều, tổn thương gan, phổi, tim, thậm chí có thể bị sốc, thậm chí tử vong./.