TCCS - Một trong những nguyên nhân căn bản dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là do bản lĩnh chính trị thiếu kiên định, thiếu vững vàng. Do đó, để cuộc đấu tranh phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” hiệu quả, cần tăng cường giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng và tấm gương Hồ Chí Minh.

Tư tưởng và tấm gương bản lĩnh chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên. Theo Người, bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên được thể hiện thông qua “tính Đảng”. Người cho rằng, trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm, cán bộ, đảng viên phải có tính Đảng. Đó là: “Nhận rõ phải, trái. Giữ vững lập trường. Tận trung với nước. Tận hiếu với dân(1), là “quyết tâm suốt đời phục vụ Đảng, phục vụ nhân dân”. Người chỉ rõ những biểu hiện của sự thiếu vững vàng, không kiên định về bản lĩnh chính trị. Đó là những biểu hiện “thấp kém về tinh thần và đạo đức cách mạng… mang nặng chủ nghĩa cá nhân… không có dũng khí cách mạng, ít lo nghĩ về trách nhiệm của mình, không quyết tâm vươn lên phía trước… hững hờ như những người không có lý tưởng,… không có thái độ người làm chủ tập thể, dám nghĩ dám làm”(2). Để giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cần làm tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng; không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng; thực hiện tốt tự phê bình và phê bình. Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên phải ra sức học tập, tu dưỡng rèn luyện, nâng cao trình độ về mọi mặt.

Chủ  tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với chiến sĩ bộ đội tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954 _ Ảnh: Tư liệu

Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng ngời về bản lĩnh chính trị của một nhà lãnh đạo, một vĩ nhân với tầm nhìn và tư duy vượt thời đại, bằng ý chí, nghị lực phi thường và trí tuệ lỗi lạc đã đưa dân tộc Việt Nam ra khỏi sự bế tắc về lý luận cách mạng, thức tỉnh nhân dân về con đường cứu nước. Với tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quan sát, nghiên cứu, khảo nghiệm, so sánh kinh nghiệm của các cuộc cách mạng điển hình, của các trào lưu tư tưởng, các mô hình xã hội trên thế giới, từ đó, bằng tầm nhìn và bản lĩnh trí tuệ, bản lĩnh chính trị đã tìm ra con đường cứu nước riêng, tìm lời giải cho những vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam, mà không sao chép, rập khuôn máy móc. Đó là các vấn đề về nền tảng lý luận của một đảng cách mạng chân chính; mục tiêu, con đường cách mạng vô sản; lực lượng lãnh đạo; lực lượng tiến hành cách mạng... góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân làm nên thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên tự do, độc lập và chủ nghĩa xã hội. Song cũng từ đó, đất nước ta đứng trước tình thế “nghìn cân treo sợi tóc”, cùng lúc, phải đối phó với “thù trong, giặc ngoài”. Với bản lĩnh chính trị nhạy cảm, sắc bén, cùng với trí tuệ lỗi lạc và sự mềm dẻo, linh hoạt, quyết đoán, Người cùng với Đảng ta đã vững vàng chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua thác ghềnh, từng bước khắc phục nạn đói, xóa nạn mù chữ, tạo tiềm lực về mọi mặt để giữ vững nền độc lập non trẻ vừa giành được, tập trung chống thực dân Pháp xâm lược.

Bản lĩnh chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta đánh bại âm mưu “cầm Hồ, diệt cộng”, đuổi được quân Tưởng và bè lũ tay sai ra khỏi lãnh thổ Việt Nam, đối phó với thực dân Pháp. Người am hiểu tường tận, tranh thủ mọi điều kiện, thỏa hiệp có nguyên tắc theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” nhằm xác lập một quốc gia Việt Nam tự do, độc lập. Trước âm mưu bằng mọi giá xâm chiếm nước ta một lần nữa, những nỗ lực đối thoại không đem lại kết quả, biết kẻ thù mạnh hơn ta mọi mặt, với bản lĩnh đứng về phía lương tri và lẽ phải, trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (năm 1946), Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(3). Bản lĩnh và trí tuệ của Người là nhân tố quy tụ sự đoàn kết dân tộc, khơi dậy và phát huy tối đa mọi nguồn lực để trường kỳ kháng chiến, đánh thắng thực dân Pháp, làm nên một Ðiện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”.

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa thắng lợi, dân tộc Việt Nam lại đương đầu với đế quốc Mỹ xâm lược - siêu cường số một của chủ nghĩa thực dân mới. Với tầm nhìn xa, trông rộng, đánh giá đúng thực lực của ta và đối phương, xu thế của thời đại, trong Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước gửi đến đồng bào, chiến sĩ cả nước năm 1966, Người khẳng định niềm tin tất thắng khi viết: “Nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do!”(4). Thắng lợi của toàn quân, toàn dân ta giành được trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, đánh tan các phương tiện hiện đại bậc nhất của Hoa Kỳ, mở ra Hiệp định Pa-ri về Việt Nam, tạo tiền đề quan trọng, đánh cho Ngụy nhào, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước cũng lại là chiến thắng của bản lĩnh và trí tuệ Hồ Chí Minh - Người hóa thân thành sức mạnh Việt Nam...

Học tập, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay có nguyên nhân là do bản lĩnh chính trị, lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất... Trong đó, có không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện; một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã chỉ rõ: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””(5). Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Đảng cũng nhấn mạnh: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý nhận thức chưa đầy đủ tính chất, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói chưa đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật”(6). Vì vậy, cần rèn luyện bản lĩnh chính trị để phòng và chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ.

Thực tiễn công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng những năm qua, đặc biệt là khi triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” gắn với Chỉ thị 03-CT/TW, ngày 14-5-2011, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, “Về việc tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, ngày 30-10-2016, “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” gắn với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII, ngày 15-5-2016, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, quy định về những điều đảng viên không được làm… đã cho thấy việc rèn luyện bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên được triển khai thực hiện nghiêm túc ở Trung ương và địa phương.

Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, nhất là cấp chiến lược”(7). Coi trọng việc “nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, sự gương mẫu, tinh thần vì nhân dân phục vụ của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu các cấp”(8). Đặc biệt, Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung và nhấn mạnh những đặc trưng cơ bản rất quan trọng mà đội ngũ cán bộ cần có, đó là “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(9). Những đặc trưng này cũng là những đặc trưng rất cơ bản của bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay. Những chủ trương, quan điểm và chỉ dẫn của Đảng là cơ sở và căn cứ rất quan trọng để nâng cao nhận thức và xác định chủ trương, giải pháp đúng đắn để nâng cao bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới của đất nước.

Cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Thàng Tín, tỉnh Hà Giang giúp đồng bào thu hoạch lúa_Nguồn: TTXVN

Tại Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII của Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là người đứng đầu chưa nhận diện đầy đủ mức độ suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” tại địa phương, cơ quan, đơn vị mình; chưa quyết tâm và có biện pháp chỉ đạo đủ mạnh, còn thụ động, trông chờ vào sự chỉ đạo, hướng dẫn của cấp trên; không thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, chưa gương mẫu, mất đoàn kết nội bộ, chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm, bị cám dỗ bởi lợi ích vật chất, thờ ơ, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân”(10). Đảng nhìn nhận sự suy thoái này có cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Trong đó, nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân, từ việc bản thân cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên mất trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân. Nguyên tắc tập trung dân chủ bị buông lỏng, nguyên tắc tự phê bình và phê bình thực hiện không nghiêm. Việc nghiên cứu, sửa đổi, ban hành cơ chế, chính sách, luật pháp thích ứng với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa kịp thời. Quản lý cán bộ, đảng viên còn lỏng lẻo. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ. Công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi chưa thường xuyên, không nghiêm túc...

Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả việc ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Đảng thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp; chủ động, kiên quyết, nghiêm minh hơn nữa, trong đó tập trung tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đảng xác định: “Tăng cường đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng”(11). Theo đó, trong giáo dục phải hết sức coi trọng chất lượng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vận dụng sáng tạo lý luận phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Quán triệt sâu sắc tư tưởng và tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh về bản lĩnh chính trị, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, cấp ủy các cấp cần tập trung thực hiện tốt một số biện pháp sau sau:

Một là, tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Để nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên, trước hết làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền về nền tảng tư tưởng của Đảng ta, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên am hiểu và có niềm tin vững chắc vào giá trị cách mạng, khoa học, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trang bị thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho con người để nhận thức và cải tạo thế giới, tạo nền tảng lý luận, bản lĩnh lý luận cho cán bộ, đảng viên ứng xử đúng trong mọi tình huống, hoàn thành nhiệm vụ công tác được phân công. Vì vậy, cần kiên trì giáo dục, bồi đắp cho cán bộ, đảng viên thế giới quan, phương pháp luận khoa học và các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.

Nâng cao nhận thức cho các cấp ủy về vị trí, vai trò, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên. Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng về đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên của tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị. Chủ động xây dựng và hoàn thiện các quy chế, quy định, chế độ học tập lý luận chính trị. Các cấp ủy cần làm tốt công tác tư tưởng, kịp thời nắm rõ những diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên. Khắc phục “bệnh lười” học tập lý luận chính trị trong cán bộ, đảng viên. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị theo hướng hiện đại, thiết thực, phù hợp với cán bộ, đảng viên. Xây dựng đội ngũ báo cáo viên, giảng viên, giảng viên kiêm chức có trình độ cao cả về lý luận và kiến thức thực tiễn. Kết hợp chặt chẽ công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị với các khâu trong công tác tổ chức, cán bộ, như bố trí, sắp xếp, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ sao cho cán bộ, đảng viên được đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị có thể phát huy tối đa năng lực và có môi trường thuận lợi để không ngừng học tập, rèn luyện và cống hiến cho cơ quan, đơn vị.

Tăng cường tổ chức các lớp bồi dưỡng lý luận chính trị dành cho đối tượng kết nạp đảng, đảng viên mới và mở rộng các hình thức đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị; cập nhật kiến thức, kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, kịp thời phát hiện, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm; biểu dương, nhân rộng những tập thể, cá nhân điển hình nhằm góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị ở các ngành, các cấp và các cơ quan, đơn vị.

Hai là, tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, phòng và chống chủ nghĩa cá nhân.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, là thực hành “cần, kiệm, liêm, chính; chí công vô tư”. Theo Người, đạo đức là “cái gốc” của người cách mạng. Khi “cái gốc” bị lung lay thì bản lĩnh chính trị sẽ không còn được giữ vững. Chủ nghĩa cá nhân đẻ ra trăm thứ bệnh nguy hiểm, là một kẻ địch hung ác của chủ nghĩa xã hội, là một thứ “giặc nội xâm” mà người cách mạng phải tiêu diệt nó. Vì vậy, việc nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên không tách rời việc nâng cao đạo đức cách mạng, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Hiện nay, mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, sự xâm nhập của những luồng tư tưởng chính trị phi mác-xít chống phá cách mạng, văn hóa phẩm độc hại, cùng với những yếu kém, khuyết điểm của chúng ta trong lãnh đạo, quản lý kinh tế - xã hội làm sự thống nhất tư tưởng xã hội có lúc, có nơi bị phân rã, đạo đức xã hội có mặt bị xuống cấp, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, sa vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Suy thoái về đạo đức sẽ dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, làm xói mòn bản lĩnh chính trị. Vì vậy, người cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, giống như “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải nêu gương về đạo đức, kiên quyết chống lãng phí, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực; tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đặt lợi ích chung lên trên lợi ích cá nhân; phải chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Cương lĩnh, Điều lệ của Đảng, quy định của Trung ương về những điều đảng viên không được làm.

Ba là, công khai, minh bạch, dân chủ trong công tác cán bộ.

Bố trí, sử dụng cán bộ đúng chỗ, đúng lúc, đúng năng lực, sở trường, đúng việc, đúng người; lựa chọn và tìm được người tài đức xứng đáng với sự tin tưởng của tập thể và niềm tin nhân dân. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tạo nguồn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đánh giá, luân chuyển, bố trí cán bộ. Hoàn thiện chính sách phát triển và trọng dụng nhân tài thực chất, hiệu quả, thu hút nhân tài vào những lĩnh vực quan trọng, không phân biệt những người trong Đảng hay ngoài Đảng, tạo sự đồng thuận, thống nhất cao của tất cả các cấp, ngành trong hệ thống chính trị. Tiếp tục đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ, năng lực, kỹ năng của cán bộ, đảng viên để làm việc tốt hơn, hiệu quả hơn nhiệm vụ chính trị được giao. Tăng cường luân chuyển cán bộ lãnh đạo và quản lý; bổ sung cán bộ cho các lĩnh vực và địa bàn quan trọng, còn thiếu, yếu nhất là cán bộ khoa học – công nghệ, cán bộ lý luận… Khắc phục tình trạng cục bộ, khép kín, lợi ích nhóm, địa phương chủ nghĩa trong công tác cán bộ. Tạo điều kiện để cán bộ trẻ, có triển vọng, cán bộ trong quy hoạch được rèn luyện trong thực tiễn.

Bốn là, tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ, đấu tranh có hiệu quả với các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực cơ hội, thù địch, phản động.

Cấp ủy các cấp, nhất là người đứng đầu, cần nắm vững và thực hiện tốt các nghị quyết, chỉ thị, quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Thường xuyên tiến hành các biện pháp phối hợp chặt chẽ với các cơ quan, đơn vị chức năng thực hiện có hiệu quả công tác phòng ngừa, ngăn chặn, vô hiệu hóa những hoạt động phá hoại chính trị nội bộ. Bên cạnh đó, cần nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh với âm mưu phá hoại của kẻ thù. Tăng cường đấu tranh trực diện với các quan điểm sai trái bằng nhiều con đường, phương thức khác nhau, cả về chiều rộng và chiều sâu, nhất là chú trọng đấu tranh bằng lý luận để bẻ gãy triệt để, từ gốc những luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch./.

----------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 9, tr. 354
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 468
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr.534
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr.131
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t. I,  tr.92
(6) Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, Hà Nội, 2021, tr. 1
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. II, tr. 231
(8) (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 24, 243
(10) Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, Sđd, tr.1
(11) Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, Sđd, tr.2