Cuốn sách “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: Cơ sở quan trọng cho tổng kết đường lối đổi mới của Đảng
TCCS - Tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn trong đời sống xã hội, rút ra những bài học kinh nghiệm qua hơn 35 năm đổi mới đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là nội dung xuyên suốt của cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Cuốn sách có ý nghĩa quan trọng cho việc tiếp tục tổng kết lý luận về đường lối đổi mới của Đảng ta, khơi dậy và phát huy khát vọng phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng do đồng chí Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng trình bày nêu rõ: "Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa”(1). Vậy “lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” là gì, được phát triển, hoàn thiện ra sao và từng bước được hiện thực hóa như thế nào? Cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng do Hội đồng Lý luận Trung ương phối hợp với Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản sẽ trả lời những câu hỏi đó.
Mục đích xuất bản cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhằm phục vụ công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, đặc biệt là tổng kết lý luận về đường lối đổi mới và những bài học kinh nghiệm, những vấn đề có tính quy luật từ thực tiễn công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ta. Đồng thời, đây cũng là tài liệu để quán triệt, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và đông đảo nhân dân về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa ở Việt Nam, tạo sự thống nhất tư tưởng trong toàn xã hội, “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thực hiện những mục tiêu chiến lược Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Theo tinh thần ấy, cuốn sách tuyển chọn 29 bài viết, bài phát biểu tiêu biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong thời gian từ khi chuẩn bị xây dựng Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đến nay. Những bài viết, bài phát biểu này đã đúc kết những thành tựu phát triển lý luận, những kết quả tổng kết thực tiễn mới nhất của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Bài viết “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” có ý nghĩa như cơ sở dẫn dắt việc tuyển chọn và sắp xếp các bài viết, bài phát biểu trong cuốn sách, với bốn nội dung cơ bản mà Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đặt ra trong bài viết: 1) Chủ nghĩa xã hội là gì? 2) Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? 3) Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam? 4) Thực tiễn công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời gian qua có ý nghĩa gì và đặt ra vấn đề gì? Các bài viết, bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư trong cuốn sách này hướng đến đối tượng tiếp nhận là cán bộ, đảng viên và đông đảo nhân dân, nhằm làm rõ những cơ sở khoa học, thực tiễn, định hướng nhận thức và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Mỗi bài viết, bài phát biểu đều có những nội dung thể hiện các vấn đề lý luận chung, đồng thời cũng phân tích tình hình thực tế, tổng kết những vấn đề thực tiễn đang đặt ra của đất nước, của các lĩnh vực trong đời sống xã hội.
Về chủ nghĩa xã hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát những thành tựu quan trọng, cơ bản của Đảng ta trong việc vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của nước ta. Từ lý thuyết khoa học của C. Mác và Ph. Ăng-ghen, sau Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã ra đời, trở thành một động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển của lịch sử nhân loại theo con đường tiến bộ, nhân văn, vì công bằng, hạnh phúc cho con người. Do những giá trị vô cùng tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và các nhà cách mạng tiền bối nước ta đã lựa chọn con đường phát triển theo chủ nghĩa xã hội cho Việt Nam, tổ chức và rèn luyện Đảng Cộng sản để lãnh đạo nhân dân ta vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, từng bước hiện thực hóa những giá trị đó thành thực tế sinh động trên đất nước ta. Những giá trị ấy không chỉ được tổng kết về lý luận, mà đã được kiểm chứng bằng chính thực tiễn công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Đó là: i) “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người”; ii) “sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội”; iii) “một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn”; iv) “sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai”; v) “một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân”(2). Chính những giá trị đích thực ấy của chủ nghĩa xã hội đã trở thành mục tiêu, định hướng con đường cách mạng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, tin tưởng và đang kiên định thực hiện.
Trên con đường từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội, từ thực tiễn công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã tổng kết, rút ra những nhận thức tổng quát về chủ nghĩa xã hội với 8 đặc trưng cơ bản: “Một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”(3). Các đặc trưng ấy là nội dung của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, một thành tựu phát triển sáng tạo lý luận riêng có của Đảng ta. Để hiện thực hóa mô hình đó, đòi hỏi cả một sự nghiệp lâu dài, gian khổ, phải đầu tư sức người, sức của to lớn, phải sáng tạo không mệt mỏi, đặc biệt là phải suy nghĩ, tìm tòi lộ trình và bước đi hợp lý, cách làm đúng đắn để giải quyết các nhiệm vụ đặt ra.
Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kết quả tìm tòi về lý luận, tổng kết thực tiễn của Đảng ta, là mô hình phát triển đặc thù của Việt Nam, phù hợp với điều kiện của giai đoạn quá độ lên chủ nghĩa xã hội và đặc điểm của đất nước. Về nội dung này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Mô hình kinh tế mà chúng ta xây dựng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây chính là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới. Theo đó, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(4).
Trên cơ sở phân tích, lý giải về kinh tế thị trường nói chung, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm rõ nhận thức của Đảng ta về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chỉ ra và khẳng định thuộc tính quan trọng, đặc trưng cơ bản làm nên sự khác biệt của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những nền kinh tế thị trường khác. Đó là nền kinh tế “gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”. Nói cách khác, đó là sự quan tâm đặc biệt đến chính sách xã hội, chính sách đối với con người, phát triển hài hòa giữa kinh tế với xã hội, không vì tăng trưởng kinh tế mà coi nhẹ tiến bộ, công bằng xã hội, phải tạo điều kiện cho con người được thụ hưởng mọi thành tựu của phát triển, cuộc sống của con người được cải thiện đồng thời với tiến trình xây dựng, phát triển kinh tế.
Bàn về văn hóa trong mối quan hệ với kinh tế nói riêng và với các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Chúng ta coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(5). Như vậy, văn hóa không chỉ được khẳng định là một trong bốn trụ cột chính sách quyết định của Đảng về xây dựng, phát triển đất nước, mà còn là sự bảo đảm cho định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế, thể hiện tính nhân văn, ưu việt của chế độ với mục đích hướng tới con người, vì hạnh phúc và sự phát triển toàn diện của con người.
Từ những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định một lần nữa quyết tâm chính trị của toàn Đảng, toàn dân: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(6). Đây chính là những tư tưởng, định hướng chỉ đạo xuyên suốt về các nhiệm vụ xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn tới, trước mắt là tư tưởng chỉ đạo đối với các nhiệm vụ và giải pháp triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Để thực hiện thành công định hướng chung đó, 4 nhiệm vụ như 4 trụ cột chính sách của Đảng là: Phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu và thường xuyên.
Nội dung về phát triển kinh tế - xã hội được thể hiện ở nhiều bài phát biểu, bài viết của Tổng Bí thư trong cuốn sách. Khi phát biểu trước Chính phủ nhiệm kỳ mới, đồng chí Nguyễn Phú Trọng đề cập toàn diện, khái quát về những nội dung, nhiệm vụ kinh tế - xã hội chung nhất. Đó là phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật, bình đẳng trước pháp luật, thực hiện chế độ phân phối công bằng và tạo động lực cho phát triển. Đó là phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thể hiện vai trò bảo đảm cho định hướng xã hội chủ nghĩa của tăng trưởng kinh tế. Đó là con người giữ vị trí trung tâm của chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới(7). Tinh thần chung ấy được cụ thể hóa một bước trong những nội dung, yêu cầu xây dựng, phát triển các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội. Đó là xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh - “một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đó là “Xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam không ngừng lớn mạnh, thực sự là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới”. Đó là chăm lo cho thanh niên là trách nhiệm của Đảng, hệ thống chính trị và toàn dân, vì “thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân tộc, rường cột của quốc gia. Thanh niên có mạnh thì dân tộc mới mạnh; trong sức mạnh của dân tộc có sức mạnh của thanh niên”(8).
Nội dung kinh tế - xã hội cũng được gắn với trách nhiệm của từng ngành, từng lĩnh vực trong việc trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Ví dụ, trong bài phát biểu tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc ngày 14-12-2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh yêu cầu, nhiệm vụ của ngoại giao trong phát triển kinh tế đất nước. Đó là “Ưu tiên tìm kiếm và mở rộng thị trường cho hàng hóa, dịch vụ và lao động Việt Nam, thu hút nguồn vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý, nhất là FDI hướng vào các lĩnh vực ưu tiên của đất nước”(9). Cho dù là các luận điểm lý luận có tính khái quát hay các nội dung nhiệm vụ cụ thể của từng lĩnh vực, ngành, nghề, thì tất cả đều bị chi phối bởi nguyên tắc: “Mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(10).
Về phát triển văn hóa, con người, xuất phát từ luận điểm nổi tiếng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phân tích, chỉ ra quá trình phát triển, hoàn thiện nhận thức của Đảng ta về văn hóa và con người, trong đó, văn hóa được coi là một trong 4 trụ cột chính sách, là nền tảng tinh thần, đồng thời cũng là nguồn lực nội sinh, động lực phát triển kinh tế - xã hội. Từ đó, đồng chí Tổng Bí thư đi đến nhận định: “Đảng ta khẳng định: Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh”(11). Đây là một vấn đề có tính quy luật, có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi xét cho cùng, mọi sự phát triển đều do con người và vì con người. Mục đích xây dựng chủ nghĩa xã hội là mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tiến bộ và công bằng cho mọi thành viên xã hội không phân biệt đẳng cấp, địa vị xã hội. Việc nhận thức rõ và đầy đủ về vai trò, tính chất và mục đích của phát triển văn hóa là điều kiện để Đảng đưa ra những chủ trương, nhiệm vụ hợp lý, có hiệu quả về phát triển văn hóa, xây dựng con người đối với các khu vực, các lứa tuổi, các tầng lớp dân cư.
Đề cập đến lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại trong điều kiện mới của đất nước và bối cảnh chung của thế giới, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo của Đảng ta đã được thể hiện nhất quán trong các văn kiện của Đại hội XIII là: “Kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn để phát triển đất nước. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng... Khai thác, sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”(12). Từ quan điểm chỉ đạo chung này, các nội dung về đường lối, định hướng, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại cụ thể đã được đồng chí Tổng Bí thư phân tích rất sâu sắc. Trong bài phát biểu tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu Đảng bộ Quân đội cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò của quân đội ta là “Quân đội nhân dân, Quân đội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và được đặt dưới sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng”(13), để thực hiện được 6 nhiệm vụ về: Quán triệt, nhận thức sâu sắc về bản chất, trách nhiệm của quân đội; xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, gương mẫu, tiêu biểu; xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, tăng cường mối quan hệ máu thịt của quân đội với nhân dân; sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa; phối hợp các bộ, ngành, địa phương để tăng cường tiềm lực quốc phòng và thế trận quốc phòng toàn dân; thực hiện đồng bộ các giải pháp để xây dựng “Quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; một số quân, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”. Do vậy, “Quân đội phải tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, gắn bó máu thịt với nhân dân”. Về vấn đề an ninh, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh yêu cầu tập trung quyết liệt, thực hiện đồng bộ các giải pháp để xây dựng “lực lượng công an thật sự trong sạch, vững mạnh, gần dân, sâu sát cơ sở”; chủ động phối hợp với các cơ quan chức năng, các bộ, ngành, địa phương và quân đội để “giữ vững an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống; tuyệt đối không chủ quan, lơ là; không để bị động, bất ngờ”(14).
Về lĩnh vực đối ngoại, từ việc tổng kết thực tiễn công tác đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước ta, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát về trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam” - mang đậm bản sắc dân tộc, “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “giữ trái tim nóng, cái đầu lạnh”, “kiên quyết, kiên trì” để xử lý các thách thức đối ngoại một cách mềm mại mà hiệu quả, tranh thủ các điểm đồng về lợi ích để thúc đẩy hợp tác và phát triển, bảo vệ tối đa lợi ích của dân tộc. Việc xây dựng, phát triển và phát huy vai trò của trường phái ngoại giao “Cây tre Việt Nam” là điều kiện, cơ sở để hoạt động đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hoàn thành được nhiệm vụ cơ bản đặt ra là: “Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước”(15).
Nội dung về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị giữ vị trí đặc biệt quan trọng trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với gần một nửa số bài viết. Vị trí quan trọng này phản ánh vai trò, vị trí có ý nghĩa quyết định của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị đối với sự nghiệp cách mạng nói chung và công cuộc đổi mới nói riêng, cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Nội dung các vấn đề về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị bao quát một cách toàn diện, từ cơ sở lý luận chung đến những vấn đề cụ thể về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức, cán bộ, kiểm tra, dân vận, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các đoàn thể nhân dân. Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo “Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta”, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: “Công tác xây dựng Đảng luôn luôn là nhiệm vụ then chốt của Đảng, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta”. Vì thế, “phải tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng với tinh thần tích cực và kiên quyết, mạnh mẽ, nhằm tạo ra một bước chuyển biến rõ rệt hơn nữa trên các mặt”. Mục đích hướng tới của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng là xây dựng “Một đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”(16).
Để đạt được mục đích ấy, “phải hết sức coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng. Kiên định, vững vàng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời không ngừng bổ sung, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam”. Trong đó, “Lý luận phải vươn lên dẫn đường và đồng hành với thực tiễn”, “phải có tầm nhìn vượt trước”, phải tạo được những bước đột phá về lý luận phát triển, khai thông những điểm nghẽn về tư duy, nhận thức, quan điểm phục vụ cho việc hoàn thiện thể chế, xây dựng đường lối, chủ trương...”(17). Cần phải tiếp tục đổi mới hoàn thiện tổ chức, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; tăng cường xây dựng, giáo dục, rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, nhất là “đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, là tinh hoa của Đảng, đòi hỏi phải thật sự vững vàng, có đủ bản lĩnh, phẩm chất, trí tuệ và có uy tín cao để giải quyết những công việc ở tầm chiến lược”(18). Đối với công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh, đó là “một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng Đảng”, “là một chức năng lãnh đạo của Đảng”, “Mọi tổ chức đảng và đảng viên đều bình đẳng trước kỷ luật của Đảng và đều phải chịu sự kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật của Đảng”. Kiểm tra, giám sát là “thanh bảo kiếm để chữa lành các vết thương”(19)…
Đối với Quốc hội, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng với tính chất là “cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đất nước trong giai đoạn mới, Quốc hội cần “tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động”, thực hiện thật tốt các chức năng: xây dựng pháp luật, tạo lập khuôn khổ pháp lý cho các hoạt động của đất nước, phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, đối ngoại; đại biểu cho quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước “theo hướng ngày càng chính xác, thực chất hơn”; “đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát”;“Đẩy mạnh hoạt động đối ngoại, chủ động, tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế”(20).
Về công tác tổ chức và hoạt động của Chính phủ, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ vai trò, trách nhiệm của Chính phủ là “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; là cơ quan trực tiếp tổ chức, quản lý, triển khai thực hiện có hiệu quả mọi chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, biến đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước thành hiện thực sinh động, mang lại ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, làm vẻ vang cho dân tộc, cho giống nòi”(21). Để hoàn thành trách nhiệm đó, Chính phủ cần phải “tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tổ chức và phương thức hoạt động”, đặc biệt quan tâm đến công tác “xây dựng tổ chức, bộ máy và công tác cán bộ”; “đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả việc phân cấp, phân quyền, phân công, phối hợp”; “siết chặt kỷ luật, kỷ cương hành chính”; kiên trì, kiên quyết “đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực”; “đóng góp to lớn hơn nữa vào công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.
Trong cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và các đoàn thể nhân dân giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đây cũng là vấn đề được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đề cập ở nhiều bài viết, bài phát biểu, trong đó tập trung nhất là bài phát biểu tại Hội nghị toàn quốc triển khai Chương trình hành động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đồng chí Tổng Bí thư nhắc lại và nhấn mạnh các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”. Cũng từ quan điểm này, đồng chí Tổng Bí thư đã khái quát thành luận điểm rất sâu sắc, quan trọng trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ 6, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, được cán bộ, đảng viên và nhân dân rất đồng tình, ủng hộ: “Ta làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”. Nhằm củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí, quyết tâm và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên cần “năng động, sáng tạo, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa; thiết thực, hiệu quả cao hơn nữa, góp phần tập hợp ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân trong khối đại đoàn kết dân tộc; tăng cường mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Nhân dân với Đảng và chính quyền, tạo thành sức mạnh to lớn, vô địch để xây dựng Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, Nhân dân ta ngày càng hạnh phúc; Đất nước ta ngày càng phát triển, phồn vinh”(22).
Tựu trung lại, cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là một công trình có tầm khái quát lý luận cao, tổng kết thực tiễn sâu sắc về những phát triển sáng tạo riêng có của Đảng ta về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, trên cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trên nền tảng tư duy lý luận sâu sắc, cuốn sách đã trình bày, phân tích, lý giải các vấn đề lý luận và thực tiễn về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam và nội dung, giải pháp để từng bước xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam một cách khúc triết, rành mạch, rõ ràng, dung dị và dễ hiểu. Cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục tổng kết lý luận về đường lối đổi mới của Đảng ta, là tài liệu quý để giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo nên sự đồng thuận xã hội để khơi dậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, để đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao, theo định hướng xã hội chủ nghĩa như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.
---------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, t. I, tr. 25
(2) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 21
(3) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 24
(4) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 91
(5) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 27
(6) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 68 - 69
(7) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 91 - 93
(8) Xem các bài: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh cùng tổ chức Công đoàn lớn mạnh”, tr. 284 - 294; “Xây dựng giai cấp nông dân Việt Nam không ngừng lớn mạnh, thực sự là chủ thể của quá trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới”, tr. 295 - 305; “Chăm lo cho thanh niên là trách nhiệm của Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội”, tr. 306 - 314...
(9) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 196
(10) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 240
(11) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 165
(12) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 49
(13) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 443
(14) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 458
(15) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 192
(16) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 226
(17) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 277
(18) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 339
(19) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 152
(20) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 79 - 80
(21) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 98
(22) Xem: Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Sđd, tr. 118
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm và làm việc tại tỉnh Quảng Ninh: Điểm sáng về đổi mới của vùng đồng bằng Bắc Bộ  (07/04/2022)
Bộ Chính trị họp cho ý kiến về Đề án tổng kết Nghị quyết về phát triển Thủ đô Hà Nội giai đoạn 2011 - 2020  (01/04/2022)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng điện đàm cấp cao với Thủ tướng Liên bang Đức Olaf Scholz  (31/03/2022)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì họp Bộ Chính trị cho ý kiến về một số nội dung quan trọng  (11/03/2022)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì cuộc họp lãnh đạo chủ chốt  (10/03/2022)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên