Giám sát quyền lực nhà nước địa phương của Đoàn đại biểu Quốc hội trong bối cảnh tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước hiện nay
TCCSĐT - Kiểm soát quyền lực nhà nước bao hàm cả kiểm soát trên xuống và kiểm soát dưới lên, kiểm soát bên trong và kiểm soát từ bên ngoài, kiểm soát “dọc” và kiểm soát “ngang”... Giám sát quyền lực nhà nước địa phương được thực hiện bởi Đoàn đại biểu Quốc hội là loại hình kiểm soát mang cả tính chất “dọc” và “ngang”, đã định hình từ Quốc hội đầu tiên và ngày càng được coi trọng trong quá trình hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Giám sát quyền lực nhà nước (QLNN) ở địa phương là việc giám sát những chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền mà cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương phải thực hiện và được thực hiện theo quy định của pháp luật và phân công, phân cấp của cơ quan nhà nước cấp trên. Việc thành lập đoàn giám sát QLNN của Đoàn đại biểu Quốc hội (ĐBQH) căn cứ vào chương trình công tác hoặc thực tế giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của tổ chức, công dân. Cơ sở chính trị, pháp lý của hoạt động giám sát QLNN ở địa phương của Đoàn ĐBQH được thể hiện rất rõ trong Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân.
1. Định dạng các nội dung, hình thức, đối tượng hoạt động giám sát QLNN ở địa phương của Đoàn ĐBQH
Từ cấu trúc QLNN, bộ máy nhà nước ở trung ương và địa phương, vấn đề giám sát QLNN ở địa phương có thể phân thành hai nhóm vấn đề chính là nội dung giám sát và hình thức giám sát.
Đối tượng hoạt động giám sát QLNN ở địa phương của Đoàn ĐBQH
Cấu trúc QLNN, bộ máy nhà nước ở địa phương chế định những đối tượng giám sát chính là:
- Cơ quan QLNN ở địa phương (HĐND): Với vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân thì việc giám sát hoạt động của các cơ quan này là rất quan trọng, thông qua hoạt động giám sát sẽ đánh giá được kết quả thể hiện trên tất cả các lĩnh vực nhưng rõ nét nhất là trong việc quyết định các vấn đề quan trọng về kinh tế - xã hội, ngân sách, quy hoạch ngành, lĩnh vực của địa phương; giám sát chuyên đề, chất vấn, trả lời chất vấn và kết quả việc quả quản lý điều hành của chính quyền các cấp….
- Cơ quan hành pháp (UBND): Với tư cách là cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, ủy ban nhân dân là cơ quan thực hiện chức năng quản lý hành chính nhà nước, chấp hành nghị quyết của hội đồng nhân dân cùng cấp cũng như các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên. Do vậy, việc giám sát Ủy ban nhân dân sẽ giúp cho Đoàn ĐBQH có những nhận định chính xác về thực trạng quá trình tổ chức triển khai thực hiện những quy định của Nhà nước, về kết quả hoạt động của Ủy ban nhân dân trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, an ninh, quốc phòng... đồng thời phát hiện những bất cập trong quá trình thực hiện, qua thực tiễn phát sinh, để có kiến nghị với cấp thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định và những cơ chế, chính sách cho phù hợp.
- Các cơ quan thẩm quyền chuyên môn ở địa phương và người làm việc trong các cơ quan này: Các cơ quan có thẩm quyền chuyên môn ở địa phương là sở, phòng, ban. Các cơ quan này trực tiếp tham mưu, giúp việc cho Ủy ban nhân dân theo lĩnh vực, ngành chuyên môn. Hiệu quả hoạt động của Ủy ban nhân dân phụ thuộc lớn vào các cơ quan này. Việc giám sát QLNN của Đoàn ĐBQH tỉnh thông qua các cơ quan này cũng rất quan trọng, vì đây là những cơ quan trực tiếp giải quyết chế độ, chính sách cho người dân; cán bộ, công chức trực tiếp tiếp cận và làm việc với người dân... Do vậy, qua mỗi kỳ tiếp công dân, tiếp xúc cử tri... người dân thường xuyên phản ảnh, kiến nghị, đề nghị, thậm chí tố cáo về hoạt động của các cơ quan, đơn vị và và thái độ của người làm việc trong các cơ quan này đến Đoàn ĐBQH. Việc giám sát các cơ quan này sẽ giúp cho Đoàn ĐBQH có căn cứ để đánh giá chính xác hiệu quả hoạt động của UBND và những cơ chế, chính sách do HĐND quyết định và ban hành...
- Các cơ quan tư pháp (Viện KSND và TAND): Với vị trí, chức năng rất quan trọng trong bộ máy Nhà nước ta, Viện kiểm sát nhân dân và Toà án nhân dân có trách nhiệm phối hợp với nhau để giải quyết vụ án hình sự đúng đắn, khách quan theo luật định nhằm bảo vệ chế độ Nhà nước, bảo vệ nhân dân và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Việc giám sát các cơ quan này cũng rất quan trọng, đảm, đảm bảo các vụ án phải xét xử một cách công tâm, khách quan, đảm bảo không lạm quyền trong quá trình triển khai thực hiện nhiệm vụ và vẫn đảm bảo tính nghiêm minh của Hiến pháp, pháp luật Việt Nam.
Nội dung hoạt động giám sát QLNN ở địa phương của Đoàn ĐBQH
Để hoạt động giám sát thực sự hiệu quả, trước hết cần lựa chọn đúng và trúng nội dung giám sát, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của địa phương, tránh dàn trải. Trong đó, cần tập trung vào những vấn đề nổi cộm, bức xúc đa số cử tri (như những chương trình, dự án, chính sách ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của đa số nhân dân; các vấn đề liên quan đến quản lý tài chính, đất đai, cải cách thủ tục hành chính…). Số lượng cuộc giám sát cũng cần được xem xét cẩn trọng, quyết định phù hợp với khả năng tổ chức thực hiện và chất lượng, hiệu quả giám sát; tránh dàn trải, tổ chức nhiều cuộc giám sát trong một khoảng thời gian nhưng hiệu quả đạt thấp. Cần có sự khảo sát, phối hợp giữa cơ quan dân cử với cơ quan kiểm tra, thanh tra để tránh chồng chéo về nội dung, thời gian, địa bàn hay đơn vị bị giám sát; tốt nhất là nên có sự lãnh đạo thống nhất từ cấp ủy cùng cấp về vấn đề này. Hoạt động giám sát QLNN ở địa phương của Đoàn ĐBQH tập trung một số vấn đề sau:
- Giám sát việc triển khai và thực thi Hiến pháp, pháp luật tại địa phương.
- Giám sát việc tổ chức bộ máy cơ quan nhà nước và cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương.
- Giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước và việc thực thi công vụ của những người làm việc trong các cơ quan đó (giám sát hành chính).
- Giám sát việc thực hiện quyền dân chủ (trực tiếp và đại diện) của nhân dân.
Hình thức hoạt động giám sát QLNN ở địa phương của Đoàn ĐBQH
Theo quy định của pháp luật và thực tiễn thực thi, tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, có thể khái quát một số hình thức giám sát QLNN của Đoàn ĐBQH ở địa phương gồm những hình thức chủ yếu sau:
Giám sát chuyền đề: Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân 2015 quy định: Giám sát chuyên đề là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét, đánh giá vấn đề hoặc hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật(1).
Hoạt động giám sát chuyên đề được Đoàn ĐBQH tỉnh Tuyên Quang quan tâm, không ngừng đổi mới. Quá trình tiến hành giám sát chuyên đề của Đoàn ĐBQH tỉnh cho thấy, khâu đầu tiên trong toàn bộ tiến trình giám sát là việc lựa chọn nội dung và mục đích giám sát giữ vai trò quan trọng. Vấn đề này được Đoàn ĐBQH tỉnh đưa ra thảo luận và được trình bày cụ thể tại kỳ họp cuối năm trước khi đưa vào nghị quyết chương trình giám sát hàng năm nên tạo được sự đồng thuận cao của các ĐBQH tỉnh. Nội dung giám sát chuyên đề tập trung vào những vấn đề nóng, đang được cử tri và dư luận quan tâm.
Để hoạt động giám sát chuyên đề đạt hiệu quả, việc nghiên cứu hồ sơ, tài liệu liên quan đến nội dung giám sát, xây dựng kế hoạch giám sát và đặc biệt là hình thành đề cương chi tiết vô cùng quan trọng. Đề cương giám sát chi tiết một mặt giúp cho thành viên đoàn giám sát xác định rõ nội dung cụ thể cần tập trung giám sát là gì, giám sát để làm gì, từ đó tạo điều kiện cho thành viên đoàn giám sát đi sâu tìm hiểu, phân tích kỹ vấn đề cần quan tâm; mặt khác định hướng cho đối tượng giám sát xác định và báo cáo những vấn đề trọng tâm, trọng điểm, tránh lan man, không đáp ứng yêu cầu. Thông thường công tác nghiên cứu hồ sơ, chuẩn bị đề cương và tổ chức cuộc họp thông qua đề cương, chỉnh sửa đề cương chi tiết kéo dài khoảng từ 15 - 20 ngày, tùy vào từng nội dung giám sát.
Giai đoạn tiến hành giám sát thực chất là quá trình thu thập và phân tích thông tin làm cơ sở thực tiễn và khoa học cho các kết luận giám sát, nhưng phải bảo đảm không thay đổi mục tiêu giám sát đã đề ra. Tuy nhiên đôi lúc cũng cần linh hoạt thay đổi một vài nội dung, chi tiết của chương trình, kế hoạch giám sát cho phù hợp. Vì thực tế khi xây dựng kế hoạch, đề cương giám sát không thể tiên liệu hết tất cả các tình huống sẽ xảy ra. Ví dụ như khi tiến hành giám sát chuyên đề về môi trường, Đoàn ĐBQH tỉnh đã mời thêm chuyên gia về môi trường cho ý kiến về những vấn đề mang tính chất chuyên môn cao. Đối với chuyên đề giám sát về nông thôn mới, đây là nội dung được triển khai ở tất cả các huyện, thị, thành phố trên địa bàn (khu vực nông thôn), phạm vi giám sát rất rộng và mỗi địa phương có thế mạnh, đặc thù khác nhau nếu tiến hành giám sát toàn bộ sẽ mất rất nhiều thời gian. Do vậy, Đoàn ĐBQH tỉnh đã quyết định thành lập từng tổ công tác phụ trách giám sát từng địa bàn. Giám sát việc thực hiện kiến nghị của cử tri, ngoài yêu cầu UBND tỉnh báo cáo, Đoàn ĐBQH tỉnh yêu cầu từng tổ giám sát phối hợp với Thường trực HĐND các địa phương giám sát thực tế. Vì đối với việc thực hiện kiến nghị của cử tri thì địa phương, cơ sở nắm rõ nhất kết quả thực hiện như thế nào, nguyện vọng của cử tri ra sao...
Sau giám sát là quá trình tổng hợp thông tin để đưa ra kết luận giám sát và kiến nghị. Đây là phần quan trọng nhất, là biểu hiện tập trung nhất hiệu quả của hoạt động giám sát. Kết luận giám sát phải khách quan, có căn cứ khoa học và thực tiễn, sát đúng tình hình. Điều quan trọng là kết luận giám sát phải chỉ ra được những hạn chế, thiếu sót, những bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện các nghị quyết, chính sách, pháp luật và đề xuất hướng giải quyết khả thi, kiến nghị cơ quan chức năng có những giải pháp khắc phục. Nếu chỉ dừng ở việc chỉ ra tồn tại, hạn chế và nguyên nhân mà không kiến nghị giải pháp thì mục tiêu cuối cùng của hoạt động giám sát chưa đạt được.
Nhìn chung, chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát của Đoàn ĐBQH tỉnh đã từng bước được nâng lên và đi vào chiều sâu, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động của bộ máy nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương. Tuy nhiên, vấn đề quan tâm nhất trong hoạt động giám sát hiện nay là việc tiếp thu, giải quyết những kết luận sau giám sát của cơ quan chức năng. Bởi, thực tế đã có không ít những ý kiến, kiến nghị rất xác đáng của đoàn giám sát không được các cơ quan tiếp thu một cách nghiêm túc, do vậy không triển khai thực hiện đầy đủ. Điều này làm giảm hiệu lực, hiệu giám sát và sâu xa hơn còn gây mất lòng tin của nhân dân vào cơ quan dân cử.
- Giám sát qua báo cáo và cho ý kiến: Đây là hình thức mà Đoàn ĐBQH chỉ nghe cơ quan, đơn vị báo cáo; Đoàn nghiên cứu và phân tich các số liệu trong báo cáo. Đối với hình thức giám sát này, yêu cầu các đại biểu trong Đoàn phải có một kiến thức chuyên sâu về nội dung giám sát, việc thu thập các thông tin trước khi giám sát qua báo cáo cũng rất quan trọng. Vì chỉ nghiên cứu qua báo cáo, không đi xuống cơ sở, các cơ quan, đơn vị giám sát trực tiếp sẽ rất khó trong việc đề nghị, kiến nghị với đơn vị được giám sát; đồng thời đề xuất với Trung ương trong việc hoạch định và sửa dổi chính sách cũng như cách thức tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện tại cơ sở.
- Giám sát bằng việc tổ chức đoàn giám sát và cho ý kiến: Đây là hình thức phổ biến nhất trong hoạt động giám sát của Đoàn ĐBQH tỉnh. Căn cứ vào chương trình giám sát hàng năm của Đoàn, Đoàn ĐBQH quyết định thành lập Đoàn giám sát, bao gồm: Căn cứ ban hành quyết định, xác định rõ đối tượng, phạm vi, nội dung, kế hoạch giám sát và thành phần đoàn giám sát; xét thấy cần thiết có thể mời thành viên là đại diện Ban Thường trực UBMTTQ, đại diện các tổ chức thành viên mặt trận và chuyên gia về lĩnh vực cần giám sát tham gia các hoạt động giám sát. Đoàn giám sát có trách nhiệm thông báo nội dung, kế hoạch, đề cương báo cáo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày ra quyết định thành lập Đoàn giám sát; thông báo chương trình và thành phần Đoàn giám sát chậm nhất là 10 ngày trước ngày Đoàn làm việc với cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát(2).
Hai là, xây dựng kế hoạch giám sát, lịch làm việc cụ thể, trong đó xác định thời gian, địa điểm, thành phần và cách thức làm việc. Trong kế hoạch giám sát cần phải bố trí thời gian để họp nội bộ Đoàn giám sát, phân công nhiệm vụ cho Trưởng đoàn, Phó Trưởng đoàn và các thành viên; yêu cầu cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát báo cáo và gửi về theo địa chỉ của Đoàn giám sát; yêu cầu Văn phòng tổ chức phục vụ các hoạt động giám sát và các yêu cầu khác nếu có.
Ba là, xây dựng đề cương báo cáo, đề cương báo cáo cần chi tiết, mỗi đơn vị khác nhau và nội dung khác nhau phải có đề cương riêng cho từng cơ quan, đơn vị; nếu nội dung có liên quan đến việc lập biểu để dễ theo dõi, cần thiết kế biểu kèm theo để các cơ quan báo cáo. Trong đề cương, Đoàn giám sát yêu cầu cơ quan chịu sự giám sát cung cấp các tài liệu, văn bản có liên quan để nghiên cứu phục vụ giám sát như: các kết luận của cơ quan thanh tra nhà nước, kiểm tra của cấp ủy; các văn bản quy định về chức năng nhiệm vụ của cơ quan đơn vị đó; văn bản giao chỉ tiêu, nhiệm vụ của cấp trên; văn bản chỉ đạo, đôn đốc của cấp trên (nếu có)… Đây là những tài liệu quan trọng phục vụ cho việc đánh giá kết quả và hạn chế yếu kém của cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát.
Bốn là, triển khai giám sát tại các cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát và đi xem xét, xác minh thực tế tại cơ sở. Trước khi triển khai giám sát, Trưởng đoàn tổ chức phiên họp đoàn giám sát để nắm lại tình hình chuẩn bị báo cáo, tài liệu tham khảo và các điều kiện cần thiết phục vụ cho đợt giám sát, đồng thời phân công nhiệm vụ cho các thành viên, yêu cầu các thành viên đoàn giám sát nêu cao tinh thần trách nhiệm chủ động nghiên cứu tài liệu, có ý kiến tham gia tại các buổi làm việc và có báo cáo kết quả bằng văn bản về nội dung được phân công.
Năm là, triển khai giám sát tại cơ quan, đơn vị, Trưởng đoàn giám sát thông báo nội dung, thành phần, mục đích, yêu cầu và kế hoạch giám sát đến các đại biểu dự họp; thống nhất cách thức tiến hành giám sát và các đơn vị hoặc những nơi Đoàn sẽ đến xem xét, xác minh thực tế, nghe đại diện cơ quan chịu sự giám sát trình bày báo cáo giải trình, đề nghị các thành phần mời dự khác có liên quan phát biểu bổ sung nội dung báo cáo giải trình, các thành viên đoàn Giám sát đặt câu hỏi đề nghị làm rõ những nội dung Đoàn giám sát quan tâm. Sau khi nghe ý kiến giải trình, nếu không còn ý kiến khác, Trưởng đoàn sơ bộ kết luận nội dung buổi làm việc để đưa vào biên bản phiên họp, trong kết luận buổi làm việc Trưởng đoàn nêu rõ quan điểm có nhất trí với kết quả đạt được và những vấn đề còn tồn tại, hạn chế như trong báo cáo hay không, những vấn đề cần phải tiếp tục làm rõ và những vấn đề cần phải xem xét, xác minh thực tế tại cơ sở.
Sáu là, xem xét, xác minh thực tế; sau khi nghe báo cáo, căn cứ nội dung giám sát, Đoàn giám sát yêu cầu cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát cung cấp một số tài liệu, hồ sơ chứng từ liên quan để xem xét, xác minh đối chiếu với nội dung đã báo cáo hoặc tổ chức xuống cơ sở hoặc công trình xem xét thực tế. Cần thiết có thể mời chuyên gia hoặc những người am hiểu về lĩnh vực giám sát để tư vấn, hỗ trợ. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Đoàn giám sát có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan áp dụng các biện pháp cần thiết để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật và khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý, xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
Bảy là, kết luận giám sát và theo dõi kết quả giải quyết các kiến nghị sau giám sát của Đoàn ĐBQH. Đoàn giám sát xây dựng dự thảo báo cáo kết quả giám sát và báo cáo với Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bố cục của Báo cáo kết quả giám sát thường được thiết kế thành 3 phần chính, bao gồm: Phần I - Kết quả thực hiện nhiệm vụ; Phần II - Một số tồn tại, hạn chế; Phần 3 - Những kiến nghị đề xuất. Tùy theo nội dung, có thể thêm phần đánh giá chung và phần nguyên nhân những hạn chế.
Các hình thức giám sát trên là rất quan trọng đối với hoạt động giám sát QLNN ở địa phương, qua đó Đoàn ĐBQH phát hiện những vấn đề cần phải khắc phục, thậm chí nhiều vấn đề cần phải điều chỉnh và sửa đổi ngay tại địa phương... góp phầnphát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh, tăng thêm lòng tin của cử tri đối với ơ quan dân cử; đồng thời cũng có nhiều kiến nghị phù hợp được Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ban ngành tiếp thu ban hành, sửa đổi bổ sung cho phù hợp.
2. Để tăng cường và nâng cao chất lượng động giám sát QLNN ở địa phương của Đoàn ĐBQH.
Trong bối cảnh Đảng ta nhấn mạnh phải tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước thì việc nâng cao hiệu quả giám sát QLLNN ở địa phương của Đoàn ĐBQH cần phải được coi trọng, trong đó cần chú ý mấy vấn đề sau đây:
Thứ nhất, không ngừng tăng cường và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động giám sát QLNN của Đoàn ĐBQH, từ xác định các quan điểm chỉ đạo đến xây dựng cơ cấu đại biểu phù hợp mang tính đại diện, tính tiêu biểu, bảo đảm chất lượng cũng như cho ý kiến đối với chương trình công tác hàng năm và những vấn đề khó và nhạy cảm. Đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng tạo điều kiện thuận lợi để Đoàn ĐBQH, các vị ĐBQH thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình do Hiến pháp, pháp luật quy định. Hoạt động của Đoàn ĐBQH tỉnh phải đặt dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng cùng cấp; đó là Tổ Đảng Đoàn ĐBQH tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương, thường trực tỉnh ủy/thành ủy, Ban Thường vụ và Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh/thành ủy, Đảng đoàn Quốc hội.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế về tổ chức và hoạt động giám sát QLNN của Đoàn ĐBQH. Đặc biệt là sửa đổi, bổ sung quy chế phối hợp hoạt động giám sát giữa Đoàn ĐBQH với các cơ quan nhà nước ở địa phương; cơ cấu tổ chức và chức năng nhiệm vụ của các cơ quan thuộc chính quyền địa phương; chế tài xử lý việc giải quyết kiến nghị qua các cuộc giám sát; quy trình, thủ tục xây dựng, triển khai kế hoạch, chương trình giám sát của Đoàn ĐBQH. Nghiên cứu chế độ lấy phiếu tín nhiệm đối với người đứng đầu các cơ quan do Hội đồng nhân dân bầu để làm căn cứ đánh giá hiệu quả giám sát; chế độ thư ký giúp việc cho từng đại biểu Quốc hội; đổi mới công tác thi đua - khen thưởng để tạo động lực cho hoạt động giám sát.
Thứ ba, nâng cao chất lượng của đại biểu và Đoàn ĐBQH được thực hiện bằng lựa chọn đại biểu đủ tiêu chuẩn, được lượng hóa thành khung năng lực cho hoàn thành các nhiệm vụ lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng. Xây dựng chế độ thông tin đầy đủ cho đại biểu Quốc hội; bồi dưỡng các kiến thức, năng lực cần thiết như theo dõi, điều tra, phân tích, đánh giá từng vấn đề cụ thể, các kỹ năng của một đại biểu chuyên nghiệp trong quan hệ với các cơ quan nhà nước, với cử tri.
Thứ tư, tăng cường trách nhiệm và khả năng phối hợp của các cấp, các ngành ở địa phương với hoạt động giám sát QLNN Đoàn đại biểu và ĐBQH. Đặc biệt là hoạt động phối hợp giữa Đoàn đại biểu Quốc hội với hội đồng nhân dân tỉnh/thành trong thực hiện chương trình giám sát; ủy ban nhân dân tỉnh/thành ủy sẵn sàng giải trình, công khai, minh bạch những vấn đề mà Đoàn đại hiểu Quốc hội yêu cầu; thu xếp, bố trí hợp lý để cử tri thuận lợi trong tiếp xúc với đại biểu Quốc hội khi tiến hành giám sát. Các tổ chức, cá nhân nằm thuộc đối tượng bị giám sát phải sẵn sàng tâm thế và thực hiên bằng hành vi có trách nhiệm trước các yêu cầu giám sát của đại biểu Quốc hội. Phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc trong giám sát, được thưc hiện thông qua xây dựng kế hoạch, thành phần tham gia cụ thể các đoàn công tác.
Thứ năm, đổi mới nội dung và hình thức giám sát. Về nội dung giám sát, cần đổi mới theo hướng xác định phải có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải hoặc trùng lặp, tập trung vào những vấn đề bức xúc mà cử tri quan tâm. Xây dựng chương trình, kế hoạch giám sát phải sát với thực tế, dựa trên cơ sở phát huy dân chủ trí tuệ của toàn thể đại biểu Quốc hội trong Đoàn. Tổ chức triển khai kế hoạch phải gắn với bố trí nguồn lực, nhân lực phù hợp, hiểu rõ đối tượng và phương thức tiếp cận. Lựa chọn thành phần tham gia phải sát hợp với chủ đề giám sát theo hướng đề cao hiệu quả công tác. Các vấn đề thuộc nội dung giám sát được phân tích, đánh giá toàn diện và sâu sắc hơn. Quá trình giám sát, phải kết hợp nghe báo cáo với kiểm tra thực tế tại địa phương, cơ sở; nghiên cứu hồ sơ, sổ sách, thu thập chứng cứ; so sánh, đối chiếu kết quả thực hiện với các quy định hiện hành của Nhà nước; rút ra được những kết luận đúng, đề xuất, kiến nghị hợp lý, có tính khả thi cao. Tại các buổi giám sát, Trưởng Đoàn giám sát yêu cầu cơ quan chức năng (được mời tham gia Đoàn giám sát) xem xét, trả lời những kiến nghị của cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; đồng thời, kết luận những vấn đề liên quan đến nội dung giám sát; tiếp thu các kiến nghị thuộc thẩm quyền giải quyết. Kết luận giám sát phải hết sức khách quan, có căn cứ khoa học, căn cứ pháp lý và sát đúng tình hình thực tiễn; chỉ ra được những hạn chế, thiếu sót, những bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện các văn bản, quy định của pháp luật, từ đó đề xuất hướng giải quyết khả thi, kiến nghị cơ quan, đơn vị có những giải pháp để khắc phục; báo cáo kết quả giám sát phải tổng hợp đầy đủ, chính xác thông tin thu được qua thực tế giám sát. Các kiến nghị, đề xuất hướng giải quyết phải đảm bảo tính khả thi, nghĩa là các kiến nghị phải cụ thể và có khả năng thực hiện. Đoàn giám sát cần thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đôn đốc cơ quan, đơn vị thực hiện nghiêm túc kết luận của Đoàn giám sát.
Sáu là, cải tiến công tác tham mưu bảo đảm cho nâng cao chất lượng giám sát của Đoàn ĐBQH ở địa phương
Hằng năm, căn cứ Nghị quyết của Quốc hội về công tác giám sát, chương trình giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và tình hình thực tiễn của địa phương, Văn phòng chủ động tham mưu cho Đoàn ĐBQH tỉnh xây dựng chương trình giám sát cả năm, được cụ thể hóa cho hàng tháng, hàng quý. Thông qua công tác tham mưu, phục vụ hoạt động lập pháp, hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân chủ động nắm bắt thông tin để đề xuất những nội dung giám sát phù hợp với các chương trình hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, tình hình thực tế của tỉnh và bảo đảm không chồng chéo về nội dung, thời gian, địa điểm giám sát với chương trình giám sát của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND tỉnh. Văn phòng chủ động tham mưu xây dựng nội dung kế hoạch cho các cuộc giám sát chuyên đề có chất lượng và tổ chức triển khai cuộc giám sát đúng kế hoạch thời gian, thành phần tham gia, có kết quả rõ ràng; phân công nhiệm vụ cho các chuyên viên theo lĩnh vực nghiên cứu đề xuất những nội dung trọng tâm cần thực hiện trong các buổi làm việc tại các đơn vị, góp phần nâng cao chất lượng giám sát của Đoàn; tham mưu xây dựng báo cáo tổng hợp báo cáo của Đoàn cụ thể, chi tiết nhưng làm rõ được những vấn đề bức xúc đặt ra. Văn phòng tham mưu việc theo dõi, đôn đốc các đơn vị có liên quan chỉ đạo, triển khai thực hiện các kiến nghị, kết luận qua giám sát đảm bảo kịp thời, hiệu quả; tích cực chủ động phối hợp, trao đổi nghiệp vụ với Vụ phục vụ hoạt động giám sát của Văn phòng Quốc hội, các sở, ngành, đơn vị liên quan.
Thứ bảy, nâng cao nhận thức và tăng cường khả năng tương tác của cử tri với hoạt động giám sát QLNN ở địa phương của Đoàn ĐBQH
Đẩy mạnh tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của ĐBQH, Đoàn ĐBQH trong hoạt động giám sát. Công tác truyền thông, tuyên truyền có vai trò quan trọng trong việc nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của ĐBQH, Đoàn ĐBQH trong hoạt động giám sát đối với mọi tầng lớp nhân dân nói chung, đối tượng chịu sự giám sát nói riêng. Vì vậy cần tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của ĐBQH, Đoàn ĐBQH và của Quốc hội nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức đối với các chủ thể giám sát và đối tượng chịu sự giám sát đặc biệt, đối với người đứng đầu để chủ động, tự giác thực hiện nghiêm túc luật hoạt động giám sát của Quốc hội.
Bên cạnh đó cần tổ chức thu thập, lấy ý kiến đánh giá của người dân về hoạt động giám sát của Đoàn ĐBQH trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua phiếu điều tra, thăm dò để từ đó tạo nên diễn đàn rộng rãi trong việc ban hành và tổ chức triển khai thực hiện giám sát về QLNN ở địa phương./.
----------------------------------------------------------
(1). Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, 2015, Nxb Lao động, tr.7.
(2). Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, 2015, Nxb Lao động, tr.77.
------------------------------
Tài liệu tham khảo:
1. Luật tổ chức tổ chức Quốc hội năm 2015, Nxb Lao động.
2. Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, Nxb Lao động.
3. Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, 2015, Nxb Lao động.
4. Trần Ngọc Đường (2004): Xây dựng mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của Quốc hội và Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
5. Nguyễn Đăng Dung (2011): Chức năng giám sát của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền. Kỷ yếu hội thảo, Nxb Lao động, Hà Nội.
Hoạt động đối ngoại nổi bật tuần qua (từ ngày 27-8 đến ngày 02-9-2018)  (05/09/2018)
Các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam tiếp Đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Lào Xây dựng đất nước  (04/09/2018)
Tiếp nối truyền thống, vững bước tương lai  (04/09/2018)
Không ngừng tăng cường quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Liên bang Nga  (04/09/2018)
Cuba kỷ niệm 45 năm chuyến thăm lịch sử của lãnh tụ Fidel tới Việt Nam  (04/09/2018)
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trả lời phỏng vấn của Hãng Thông tấn TASS  (04/09/2018)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên