TCCSĐT - Sau Đại hội XII của Đảng, các cấp, các ngành đều tích cực triển khai thực hiện các nhiệm vụ được nêu trong Văn kiện Đại hội. Với giai cấp nông dân Việt Nam và tổ chức hội của mình - Hội Nông dân Việt Nam, đây là dịp để nhìn lại những nỗ lực thời gian qua, đồng thời tiếp tục phấn đấu thực hiện những nhiệm vụ trọng tâm mà Đại hội XII của Đảng đã đề ra.

Chăm lo phát triển tổ chức hội vững mạnh, thu hút ngày càng đông đảo hội viên

Giai cấp nông dân Việt Nam chiếm số lượng lớn trong cơ cấu dân số và cơ cấu xã hội nghề nghiệp, đến nay số lao động sống bằng nghề nông vẫn chiếm xấp xỉ 50% tổng lao động xã hội, và đến 2020 tỷ lệ này đạt 40%; số dân sống ở khu vực nông thôn vẫn đạt khoảng 65%. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Hội Nông dân Việt Nam, công tác phát triển hội viên, xây dựng tổ chức hội hoạt động hiệu quả luôn được quan tâm thực hiện.

Thứ nhất, các cấp hội đã thường xuyên thực hiện công tác tuyên truyền, vận động nông dân và hội viên ở các cấp. Nội dung tập trung vào tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; phổ biến, nâng cao kiến thức về pháp luật, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng; giới thiệu các gương “người tốt, việc tốt”, các mô hình, điển hình tiên tiến, phổ biến các tiến bộ khoa học, công nghệ...

Việc tuyên truyền được thực hiện với nội dung và hình thức phong phú, thiết thực, hiệu quả; thông qua sinh hoạt chi hội thường kỳ, tổ nông dân…; qua các bản tin, ra chuyên trang, chuyên mục và tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng. Bên cạnh đó, động viên hội viên và nông dân tham gia cuộc vận động “Nông dân với Trường Sa”, Hội thi tuyên truyền viên giỏi toàn quốc, các cuộc thi, hội thi ở cơ sở và các hoạt động xã hội gắn với đẩy mạnh thực hiện “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”… Qua đó, đã góp phần nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, ý thức cảnh giác cách mạng; cổ vũ, khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự chủ, tự lực, tự cường vươn lên của nông dân, từng bước khẳng định vai trò chủ thể trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, tạo nên sự đồng thuận trong xã hội, củng cố niềm tin của nông dân với Đảng và Nhà nước.

Thứ hai, công tác kết nạp hội viên, xây dựng, kiện toàn tổ chức và đội ngũ cán bộ hội các cấp được chú trọng hơn. Thời gian qua, đã kết nạp được 1.175.717 hội viên; nâng tổng số hội viên lên 10.515.000 người và 8.763.150 hộ nông dân có hội viên. Hầu hết các chi hội đều xây dựng được quỹ hội từ nhiều nguồn và hình thức khác nhau để hoạt động. Đến nay, số chi hội xây dựng được quỹ hội đạt xấp xỉ 90%. Tỷ lệ hội viên tham gia sinh hoạt trong các chi hội, tổ hội luôn đạt trên 80%, số nộp hội phí đạt gần 90%. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hội các cấp tiếp tục được quan tâm thực hiện. Đến năm 2016, đã có gần 490 nghìn lượt cán bộ hội các cấp được đào tạo chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị. Đến nay, đã có 45,63% số chủ tịch; 19,73 % số phó chủ tịch hội cơ sở có trình độ trung cấp chính trị; 32,67% số chủ tịch, 31,68% số phó chủ tịch hội cơ sở có trình độ sơ cấp chính trị; 69,5% cán bộ chuyên trách cấp tỉnh, 77,1% cán bộ chuyên trách cấp huyện, phần lớn chủ tịch và phó chủ tịch hội cấp cơ sở được bồi dưỡng nghiệp vụ công tác hội. Hầu hết cán bộ làm công tác kiểm tra các cấp được tập huấn về chuyên môn, nghiệp vụ công tác hòa giải và kỹ năng tổ chức câu lạc bộ nông dân với pháp luật.

Về tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và xây dựng hệ thống chính trị

Hiện nay, số đảng viên sinh hoạt ở cấp xã chiếm trên 40% tổng số đảng viên toàn Đảng. Tỷ lệ hội viên Hội Nông dân là đảng viên chiếm 8,1%, vì vậy giai cấp nông dân và tổ chức hội nông dân các cấp có vai trò quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là ở cấp cơ sở. Bên cạnh đó, hội nông dân các địa phương có vai trò ngày càng quan trọng trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị trên địa bàn, khi Quyết định số 217-QĐ/TW và Quyết định số 218-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, về Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội thực hiện giám sát và phản biện xã hội được hiện thực hóa. Những hành động, nỗ lực trên của tổ chức đảng, chính quyền và hội nông dân các cấp, đã góp phần quan trọng vào kết quả: “Hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường”(1).

Cụ thể là, cán bộ, hội viên của hội vận động quần chúng nông dân tham gia góp ý đối với cán bộ, đảng viên ở địa phương theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, Chỉ thị số 03-CT/TW, ngày 14-05-2011, của Bộ Chính trị khóa XI về “tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”; tích cực tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Bên cạnh đó, các cấp hội tham gia thực hiện có hiệu quả Quy chế Dân chủ ở cơ sở; kịp thời phản ánh với cấp ủy, chính quyền các cấp về những bức xúc và nguyện vọng của nông dân, để tổ chức đảng và chính quyền các cấp kịp thời có những biện pháp xử lý thỏa đáng nhằm đáp ứng những nguyện vọng chính đáng của quần chúng. Trong thời gian đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội XII của Đảng, hội nông dân các cấp đã xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện nhiệm vụ, như: tích cực vận động hội viên, nông dân tham gia góp ý kiến vào văn kiện và nhân sự đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2015 - 2020; đồng thời, bồi dưỡng, giới thiệu trên 13 ngàn hội viên ưu tú học lớp đối tượng Đảng, để kết nạp vào Đảng 9.589 hội viên (đạt tỷ lệ trên 70% được kết nạp Đảng). Đến nay, có 6.697 cán bộ chủ chốt hội cấp xã tham gia cấp ủy cơ sở (chiếm 63,5%); 556 cán bộ chủ chốt hội cấp huyện tham gia cấp ủy cấp huyện (chiếm 81,6%); 48 cán bộ chủ chốt hội cấp tỉnh tham gia cấp ủy cấp tỉnh (chiếm 76,2%).

Thời gian tới, để giai cấp nông dân và tổ chức hội đóng góp ngày càng tốt hơn nữa vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cần nghiêm túc thực hiện một trong những biện pháp được đề ra tại Đại hội XII của Đảng là: “Thực hiện nghiêm… giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân về phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên”(2); đồng thời, thực hiện nghiêm những nội dung về chống tham nhũng, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, như Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đề ra.

Hằng năm, Trung ương Hội đã ban hành kế hoạch về việc tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, thực hiện phản biện các dự thảo văn bản quy phạm pháp luật. Đó là các văn bản pháp luật, như Luật Tổ chức Quốc hội (sửa đổi), Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (sửa đổi), Bộ luật Dân sự (sửa đổi), các nghị quyết của Chính phủ, quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các thông tư, hướng dẫn của các bộ, ngành liên quan đến nông nghiệp, nông dân, nông thôn.

Gần đây nhất, thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị ban hành Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội và Quyết định số 218-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính trị ban hành Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã xây dựng Kế hoạch số 458-KH/HNDTW, ngày 23-5-2014, về triển khai thực hiện Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Theo đó, các cấp hội đã xây dựng kế hoạch triển khai, tích cực tuyên truyền, vận động hội viên, nông dân tham gia thực hiện. Bên cạnh đó, thực hiện Quyết định số 81/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, về việc phối hợp giữa các bộ, ngành, ủy ban nhân dân các cấp với Hội Nông dân Việt Nam các cấp trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của nông dân, Ban Thường vụ Trung ương Hội đã ban hành Kế hoạch và tổ chức hội nghị quán triệt, triển khai thực hiện trong các cấp hội; ký Quy chế phối hợp với Thanh tra Chính phủ trong việc tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của nông dân. Hằng năm, các cấp hội đã tham gia giải quyết trên 22 nghìn đơn, thư khiếu nại, tố cáo trong nội bộ nông dân, tham gia hòa giải hàng trăm ngàn vụ mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ nông dân tại cơ sở, góp phần hạn chế khiếu kiện kéo dài, vượt cấp, cũng như ổn định tình hình an ninh, chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Việc hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương gắn kết hữu cơ với đổi mới tổ chức và cơ chế hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp…”(3), do đó thời gian tới hội nông dân các cấp bên cạnh tiếp tục phát huy vai trò của mình trong góp phần xây dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực điều hành, quản lý của chính quyền và hệ thống chính trị các cấp, cần phối hợp với tổ chức đảng và chính quyền các cấp tổ chức tốt việc “Thực hiện thí điểm dân trực tiếp bầu một số chức danh ở cơ sở và cấp huyện”(4).

Tham gia thực hiện các giải pháp nâng cao năng suất lao động, chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế

Trong những năm qua, với chức năng, nhiệm vụ của mình, Hội Nông dân Việt Nam đã góp phần vào việc nâng cao chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nói chung, nâng cao năng suất lao động trong lĩnh vực nông nghiệp nói riêng. Các phong trào nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau làm giàu và giảm nghèo bền vững, đã tạo động lực, khích lệ nông dân hăng hái thi đua lao động sản xuất, vươn lên làm giàu; tích cực chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, khai thác tiềm năng, thế mạnh của địa phương; mạnh dạn đầu tư, áp dụng kỹ thuật, công nghệ mới vào sản xuất, tạo ra giá trị hàng hóa, lợi nhuận cao. Tổ chức hội các cấp đã tuyên truyền, vận động, hỗ trợ hội viên, nông dân thực hiện “dồn điền, đổi thửa”, hợp tác xây dựng “cánh đồng mẫu lớn” tạo vùng sản xuất tập trung, góp phần thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp; hợp tác liên kết giữa nông dân với doanh nghiệp, nông dân liên kết xây dựng hợp tác xã, tổ hợp tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Bên cạnh đó, tổ chức nhiều hoạt động hỗ trợ, tập huấn, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật, công nghệ mới, dạy nghề, xây dựng các mô hình trình diễn; tín chấp cho nông dân vay vốn mua vật tư, máy móc nông nghiệp, tiêu thụ sản phẩm; hướng dẫn phát triển các hình thức kinh tế tập thể; phối hợp với các bộ, ngành thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hóa xã hội ở nông thôn. Qua đó, đã thu hút được đông đảo các hộ nông dân tham gia phong trào và ngày càng có nhiều nông dân đạt danh hiệu hộ sản xuất, kinh doanh giỏi; kết quả bình quân hằng năm đã có hơn 4 triệu hộ nông dân đạt danh hiệu hộ sản xuất, kinh doanh giỏi các cấp. Nhiều mô hình có quy mô sản xuất lớn, thu hút hàng trăm lao động, thu nhập hàng chục tỷ đồng mỗi năm.

Trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, cùng với các cấp, các ngành, tổ chức hội các cấp đã tuyên truyền, vận động nhằm chuyển biến tư duy trong sản xuất, kinh doanh của nông dân từ coi trọng về số lượng chuyển sang nâng cao chất lượng sản phẩm, giá trị lợi nhuận cao; từ sản xuất cá thể đơn lẻ sang liên kết, hợp tác mở rộng quy mô sản xuất. Góp phần thúc đẩy việc trang bị kiến thức, kỹ năng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ cao vào sản xuất, thực hiện cơ giới hóa nông nghiệp, nâng cao kỹ năng lao động; liên kết mở rộng quy mô sản xuất, tiến tới xây dựng thương hiệu, bảo đảm chất lượng sản phẩm an toàn, có sức cạnh tranh cao đáp ứng các yêu cầu của thị trường.

Phát huy mạnh mẽ mọi nguồn lực, sức sáng tạo của nông dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội

Hội nghị Trung ương 7 khóa X của Đảng khẳng định: “Giải quyết vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; trước hết phải khơi dậy tinh thần yêu nước, tự chủ, tự lực, tự cường vươn lên của nông dân”(5). Từ định hướng chung đó, Hội Nông dân Việt Nam đã thành lập các câu lạc bộ, tổ, nhóm liên kết nông dân sản xuất, kinh doanh giỏi theo chuyên ngành hoặc đa ngành, đa lĩnh vực; tạo diễn đàn của nông dân trao đổi kinh nghiệm, kỹ thuật, thông tin thị trường nhằm đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo chuỗi liên kết đạt hiệu quả kinh tế cao. Tổ chức hội các cấp đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ hỗ trợ, quảng bá sản phẩm cho nông dân thông qua việc làm cầu nối liên kết hợp tác, giữa nông dân với nông dân, giữa nông dân với các đơn vị, doanh nghiệp, hỗ trợ nông dân các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” trong quá trình sản xuất, kinh doanh, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của nông dân.

Những trợ giúp về vốn và cơ chế thực hiện nhằm khơi dậy sức sáng tạo và mọi nguồn lực trong đội ngũ nông dân được tổ chức hội tập trung là: tăng cường khai thác các nguồn vốn từ hoạt động tín chấp với các ngân hàng giúp cho nông dân có vốn sản xuất. Đẩy mạnh triển khai các đề án, dự án để tăng cường thêm nguồn vốn, tiến bộ kỹ thuật mới phục vụ cho nông dân. Thời gian tới, để phát huy mạnh mẽ sức sáng tạo của nhân dân và huy động mọi nguồn lực đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa hội nông dân với các bộ, ban, ngành, tổ chức có liên quan, nhằm “Có cơ chế, chính sách khuyến khích nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin vào sản xuất và quản lý. Áp dụng rộng rãi các loại giống mới và kỹ thuật nuôi trồng có năng suất, chất lượng, hiệu quả cao và thích ứng với biến đổi khí hậu. Hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng thương hiệu sản phẩm, nông dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp”(6).

Định hướng, chủ trương của Đảng với khu vực nông thôn và giai cấp nông dân là: “Xây dựng xã hội nông thôn ổn định, hòa thuận, dân chủ, có đời sống văn hóa phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo động lực cho phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân”(7). Từ chủ trương đó, các cấp hội đã phối hợp với các ngành có liên quan tổ chức, vận động nông dân các địa phương tích cực hưởng ứng và thực hiện có hiệu quả việc xây dựng và phát triển nhân tố con người, xây dựng con người và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, tạo cơ sở, tiền đề cho nhiều chương trình, kế hoạch phát triển. Tổ chức hội và giai cấp nông dân cần tích cực tham gia, thực hiện “Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới và quá trình đô thị hóa một cách hợp lý… thu hẹp khoảng cách về phát triển giữa đô thị và nông thôn, tăng cường kết nối nông thôn - đô thị, phối hợp các chương trình phát triển nông nghiệp, nông thôn với phát triển công nghiệp, dịch vụ và đô thị”(8).

Vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm đang là vấn đề gây bức xúc, thu hút sự quan tâm của toàn xã hội. Ban Thường vụ Trung ương Hội Nông dân Việt Nam đã ban hành Nghị quyết về “Tăng cường tuyên truyền, vận động nông dân sản xuất, kinh doanh sản phẩm nông nghiệp đảm bảo an toàn”, xác định rõ vai trò, trách nhiệm của tổ chức hội trong việc tham gia bảo đảm an toàn vệ sinh thực phẩm, bảo vệ sức khỏe nhân dân; nâng cao chất lượng sản phẩm nông nghiệp, góp phần phát triển nền nông nghiệp sạch bền vững, thân thiện với môi trường, bảo đảm yêu cầu hội nhập quốc tế và xây dựng tổ chức hội vững mạnh./.

----------------------------------------

(1) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia Hà Nội, 2008, tr. 126

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, HN, 2016, tr. 203

(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 180

(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 180

(5) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Sđd, tr. 125

(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 283

(7) Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Sđd, tr. 125

(8) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 93