Xa dân - một biểu hiện của suy thoái đạo đức và giải pháp khắc phục

Đỗ Thanh Hải Khoa Triết học, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng
06:59, ngày 15-05-2013
TCCSĐT - Bệnh “xa dân” hiện nay ở một bộ phận cán bộ, đảng viên đã gây ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước, làm giảm sút lòng tin trong nhân dân, cần phải có biện pháp ngăn chặn.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường dạy: “Các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc đến các làng đều là công bộc của dân”(1), cán bộ là “người đầy tớ thật sự trung thành của nhân dân”(2). Theo đó, đạo đức lớn nhất của người cán bộ cách mạng là hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Cho nên mọi biểu hiện xa dân, gây phiền hà khó dễ cho nhân dân là sự vi phạm nghiêm trọng đạo đức của người cách mạng.

 

Xa dân - một biểu hiện của suy thoái đạo đức

 

Bệnh xa dân thể hiện ở lối làm việc quan cách, cửa quyền, hách dịch gây phiền hà, khó dễ; thói quan liêu, tham ô, tham nhũng đục khoét của dân; các chủ trương, chính sách ban hành không phản ánh đúng lợi ích, thậm chí đi ngược lại quyền lợi nhân dân. Bệnh xa dân bộc lộ ở việc cán bộ cấp dưới thì mắc bệnh thành tích, say mê với những con số ảo xa rời thực tế, lối làm việc qua loa, đại khái thậm chí là dối trá. Cán bộ cấp cao hơn thì không đi sâu, đi sát vào thực tiễn, xa rời quần chúng, làm việc dựa trên giấy tờ, báo cáo của cấp dưới mà thiếu kiểm tra thực tế, không lắng nghe ý kiến của quần chúng. Thậm chí đó còn là một căn bệnh tập thể: một tập thể cơ quan hay đơn vị nào đó xa dân với lối làm việc “hành là chính” thiếu quy củ, nền nếp, ăn cắp thì giờ, chậm chễ, dây dưa trong công việc gây phiền hà, sách nhiễu thậm chí còn vòi vĩnh nhân dân.

 

Nguyên nhân của bệnh xa dân là tình trạng suy thoái đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”(3). Tình trạng chạy theo quyền lực, ham quyền, tham quyền cũng dẫn tới hậu quả là bệnh xa dân. Bởi vì, một số ít cán bộ không do năng lực, không vì tâm huyết với dân, với Đảng nhưng “chui” được vào bộ máy công quyền, họ chỉ lo kéo bè, kéo cánh tạo những nhóm lợi ích và mải thu vén cá nhân mà không lo cho dân. Vì kém tài, kém đức lại ham quyền lực “coi Đảng như một cái cầu thang để thăng quan phát tài... tự cho mình có quyền sống xa hoa hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi”(4), từ đó mà càng ngày càng xa dân, xa rời tôn chỉ mục đích cán bộ là công bộc của nhân dân. Mặt khác, những hạn chế, yếu kém trong hệ thống luật pháp, cơ chế tổ chức quản lý nhà nước, giác ngộ chưa cao của một bộ phận quần chúng nhân dân về vai trò của mình cũng dẫn tới bệnh xa dân trong một số cán bộ, đảng viên.

 

Cách làm việc xa dân dẫn tới hậu quả là: chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước là đúng nhưng khi tổ chức thực hiện sai vì không áp dụng đúng với thực tiễn đa dạng, phong phú, không đến được với người dân, không làm cho dân tin, dân hiểu, dân theo, gây bức xúc làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Mặt khác, bệnh xa dân còn gây nguy hại ở việc không thấy được vai trò, sứ mệnh, sức mạnh quần chúng đối với lịch sử, không phát huy được sức mạnh của quần chúng nhân dân. Bệnh xa dân làm nguy hại thêm tình trạng suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, là “đồng minh tự nhiên” của các âm mưu, hành động chống phá của các thế lực phản động. Xa dân, lối làm việc quan liêu, bệnh tham quyền lực... trở thành mắt xích yếu nhất để kẻ thù lợi dụng lôi kéo, mua chuộc làm cán bộ, đảng viên sa ngã, làm suy yếu chính quyền, làm mất uy tín của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân.

 

Một số giải pháp khắc phục

 

Hiện tượng xa dân nếu không kiên quyết khắc phục sẽ là trở ngại lớn cho công cuộc đổi mới. Để khắc phục tình trạng trên đòi hỏi cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:

 

Một là, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về tư cách đạo đức người cán bộ cách mạng theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh. Suốt cuộc đời mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mong muốn mà Người luôn trăn trở “là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(5). Người đã hy sinh cả cuộc đời mình đấu tranh cho hạnh phúc của nhân dân và trở thành tấm gương sáng ngời về đạo đức, phong cách người cách mạng của dân, do dân, vì dân. Người khẳng định cán bộ là công bộc của nhân dân, được nhân dân tin tưởng giao trọng trách thi hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Cán bộ do đó phải hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, cần tránh bệnh làm quan cách mệnh, bệnh quan liêu xa rời quần chúng, bệnh sách nhiễu nhân dân. Không dừng lại ở lời nói suông, huấn thị, Chủ tịch Hồ Chí Minh tích cực thực hành mẫu mực là người công bộc của nhân dân. Đó là phong cách làm việc cụ thể, nói đi đôi với làm, sâu sát cơ sở, luôn lắng nghe ý kiến của quần chúng, luôn kiểm tra việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách kịp thời rút kinh nghiệm để mang lại hiệu quả thiết thực. Người ghét nhất việc cán bộ, đảng viên thờ ơ, lãnh đạm, bỏ mặc không xem xét những yêu cầu chính đáng của nhân dân. Bác thường nhắc nhở mọi người: Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta. Làm cho dân kính, dân yêu, dân tin, dân phục là vấn đề thuộc về lòng người. Uy quyền chỉ có thể làm người ta sợ, chứ không thể dành được sự tin yêu, kính phục của người khác.

 

Về sự cần thiết phải học tập vào làm theo Bác, trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Đảng ta chỉ rõ “tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”(6). Do đó, các tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, chủ trì các cơ quan, đơn vị cần chú trọng giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về tư cách đạo đức người cán bộ cách mạng, về bổn phận của người cán bộ trước nhân dân theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đặc biệt chú trọng giáo dục và bồi dưỡng phong cách làm việc theo tấm gương của Bác. Mục tiêu giáo dục phải làm chuyển biến trong nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, kịp thời chấn chỉnh những thiếu sót trong cơ quan, đơn vị mình.

 

Học tập phong cách làm việc Hồ Chí Minh trước tiên ở nhận thức về ý nghĩa của công việc mình làm là để mang lại lợi ích cho nhân dân, dân tộc, do đó mà mỗi cán bộ, đảng viên phải xóa sạch trong tư tưởng, đầu óc của mình bệnh cá nhân chủ nghĩa, xây dựng tinh thần “dĩ công vi thượng”. Học tập phong cách làm việc gần dân, thân dân, vì dân của Bác phải thể hiện ở những công việc cụ thể, hằng ngày gắn với nhiệm vụ cương vị công tác của mỗi người. Điều đó không hề dễ dàng với những ai xem việc học tập Bác chỉ thuần túy trong tư tưởng, theo phong trào, không biến thành hành động. Do đó, bên cạnh việc nêu gương tốt, cần kịp thời chấn chỉnh những lệch lạc trong tư tưởng, nhận thức và hành động trong học tập phong cách làm việc của Bác, góp phần nâng cao đạo đức công vụ của cán bộ, đảng viên trước nhân dân.

 

Hai là, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình nhằm phát hiện, ngăn ngừa mọi biểu hiện xa dân trong các cơ quan, tổ chức. Thực hiện tốt tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI của Đảng là biện pháp hữu hiệu để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mỗi cán bộ, đảng viên về đạo đức công vụ và thực hành đạo đức công vụ trong phục vụ nhân dân; đồng thời ngăn chặn, đẩy lùi các biểu hiện của bệnh xa dân, góp phần làm trong sạch bộ máy Đảng, Nhà nước ta từ Trung ương tới cơ sở. Thông qua vũ khí tự phê bình và phê bình để phát hiện, khắc phục các hiện tượng tiêu cực trong cơ quan, đơn vị, đặc biệt sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; các hiện tượng gây khó dễ, phiền hà cho nhân dân ở cơ quan, đơn vị mình; các ý kiến, phản hồi của người dân chưa được giải quyết thỏa đáng... Để thực hiện được điều đó đòi hỏi tính tiền phong gương mẫu của người đứng đầu cơ quan, đơn vị; ở môi trường dân chủ, cởi mở, thẳng thắn, trung thực, khách quan, chân thành, ở dũng khí người cách mạng và ở ý thức trách nhiệm với nhân dân của mỗi người. Tuy nhiên, tự phê bình và phê bình nhằm ngăn ngừa bệnh xa dân hiện nay còn gặp nhiều trở ngại. Đó là, bệnh cá nhân chủ nghĩa, bệnh bè phái, tư tưởng sợ đấu tranh... còn tồn tại trong nhiều cán bộ, đảng viên. Do đó, tự phê bình và phê bình vừa là giải pháp đột phá cấp bách, mang lại hiệu quả ngay, đồng thời là việc làm thường xuyên, liên tục như công việc “rửa mặt hằng ngày” nhằm làm trong sạch tổ chức và cán bộ.

Ba là, bảo đảm dân chủ, khách quan trong công tác phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và sử dụng cán bộ. Để các cơ quan của Đảng, Nhà nuớc ta có được đội ngũ cán bộ tốt, vừa có tài, vừa có tâm, tận tụy phục vụ nhân dân, khắc phục được bệnh xa dân từ gốc rễ thì công tác phát hiện, tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch và sử dụng cán bộ là khâu rất quan trọng cần được thực hiện tốt hơn nữa.        

 

Trong những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chính sách để thu hút người tài đức vào phục vụ các cơ quan công quyền và mang lại những kết quả đáng kể. Ví như, việc ưu tiên tuyển các sinh viên tốt nghiệp loại giỏi vào các cơ quan nhà nước; tuyển dụng các sinh viên tốt nghiệp đại học có nguyện vọng về công tác ở chính quyền các xã vùng sâu, vùng xa; cơ chế ưu đãi của một số tỉnh, thành đối với cán bộ có học hàm, học vị tình nguyện về địa phương làm việc... Tuy nhiên, việc tuyển chọn và bố trí, sử dụng cán bộ ở nước ta còn tồn tại tình trạng “đánh trống bỏ dùi”, một số cán bộ có năng lực được tuyển dụng không phát huy được trong thực tế do không được bố chí đúng chuyên môn, do cơ chế hành chính còn nhiều rào cản. Điều đó không những không phát huy mà còn làm thui chột ý chí và tài năng của nhiều người tâm huyết. Đánh giá công tác cán bộ, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Đảng ta cũng đã thẳng thắn chỉ ra khuyết điểm: còn tồn tại tình trạng: “Một số trường hợp đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ chưa thật công tâm, khách quan, không vì yêu cầu công việc, bố trí không đúng sở trường, năng lực, ảnh hưởng đến uy tín cơ quan lãnh đạo, sự phát triển của ngành, địa phương và cả nước”(7). Việc quy hoạch, tuyển dụng, bổ nhiệm cán bộ “quan hệ, tiền tệ, hậu duệ” chi phối sẽ rộng đường cho một số phần tử thoái hóa, biến chất, cơ hội thực dụng chui vào các cơ quan Đảng, Nhà nước, tất yếu dẫn đến tình trạng xa dân của bộ máy công quyền. Chính vì vậy, việc bảo đảm dân chủ, khách quan trong công tác cán bộ hiện nay có ý nghĩa rất lớn đối với việc ngăn chặn từ gốc bệnh xa dân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, giúp “loại trừ khả năng để cán bộ và người thân của cán bộ lợi dụng chức vụ, vị trí công tác để trục lợi”(8).

 

Để thực hiện được giải pháp này cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, quy hoạch và sử dụng cán bộ. Đặc biệt, phải bố trí, sử dụng cán bộ đúng sở trường, năng lực. Lấy kết quả thực hiện nhiệm vụ và sự tín nhiệm của quần chúng để đánh giá và quy hoạch cán bộ. Phải kiên quyết không bổ nhiệm cán bộ không đủ đức, đủ tài, cơ hội chủ nghĩa. Thực hiện nghiêm quy chế thôi chức, miễn nhiệm từ chức, kịp thời thay thế  đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý yếu kém về phẩm chất, năng lực, uy tín giảm sút. Bên cạnh đó cần thực hiện tốt công tác luân chuyển và quản lý cán bộ, đây là biện pháp hữu hiệu để hạn chế tình trạng quan liêu xa rời quần chúng trong một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.

 

Bốn là, thực hiện tốt việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, kịp thời loại bỏ những người xa rời quần chúng ra khỏi hàng ngũ. Phẩm chất, năng lực của cán bộ phải được thể hiện thông qua công việc, bằng kết quả thực hiện nhiệm vụ và bằng uy tín đối với tập thể, với nhân dân. Có thể nói sự tín nhiệm hay không tín nhiệm là tiêu chí rất quan trọng để đánh giá cán bộ.

 

Triển khai thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm hằng năm đối với các chức danh lãnh đạo trong cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 35/2012/QH13 về việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn, Nghị quyết này có hiệu lực thi hành từ ngày 1-2-2013. Trong Kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa XIII dự kiến diễn ra từ 20-5 đến 20-6-2013 tới đây, Quốc hội sẽ lấy phiếu tín nhiệm 49 chức danh chủ chốt do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Người được lấy phiếu tín nhiệm nếu có quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội đánh giá “tín nhiệm thấp” thì có thể xin từ chức. Người có trên 2/3 tổng số đại biểu Quốc hội đánh giá “tín nhiệm thấp” hoặc 2 năm liên tiếp có quá nửa tổng số đại biểu đánh giá “tín nhiệm thấp” thì Ủy ban Thường vụ Quốc hội trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm. Điều này thể hiện quyết tâm cao của Đảng, Nhà nước ta trong việc từng bước làm trong sạch bộ máy, nâng cao hiệu quả thực hiện quyền lực nhân dân của cán bộ và các cơ quan công quyền. “Cơ chế” lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm nếu được thực hiện tốt sẽ góp phần quan trọng trong việc làm trong sạch bộ máy chính quyền, sàng lọc, loại bỏ những người xa rời quần chúng ra khỏi hàng ngũ.

Để thực hiện tốt việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao nhận thức về mục đích, ý nghĩa, cách thức thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm; thấy được trách nhiệm bản thân. Tránh lợi dụng việc này để tâng bốc hay “hạ bệ” cán bộ hoặc gây khó khăn cho công tác cán bộ. Mặt khác, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm là một công việc còn khá “mới mẻ”, do đó cần lường trước những khó khăn nảy sinh cả trong nhận thức, tư tưởng cũng như trong thực hiện việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm của cả cán bộ được lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm và những người thực hiện. Mặt khác, tổ chức đảng, chính quyền các cấp cần tuyên truyền làm cho nhân dân hiểu được ý nghĩa của việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm, để nâng cao giác ngộ, sự giám sát và phản biện của quần chúng, góp phần mang lại hiệu quả thiết thực cho công tác này.

 

Năm là, tăng cường vai trò giám sát và phản biện xã hội của nhân dân đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy công quyền. Giám sát và phản biện xã hội là tiếng nói của nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đối với tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị. Giám sát và phản biện xã hội phát triển phản ánh nền dân chủ được tăng cường, đồng thời thể hiện sự phát triển một bước trình độ nhận thức và trách nhiệm của nhân dân. Giám sát và phản biện xã hội còn có tác dụng hạn chế sự lạm dụng quyền lực, sự độc đoán chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng trong cơ quan Đảng, Nhà nước. Giám sát và phản biện xã hội ở nước ta hiện nay đang được khuyến khích. Đảng, Nhà nước ta khuyến khích nhân dân đóng góp ý kiến, quan điểm của mình vào mọi lĩnh vực như bổ sung, sửa đổi Hiếp pháp, ban hành các đạo luật... Khẳng định vai trò của giám sát và phản biện xã hội, Văn kiện Đại hội lần thứ XI Đảng ta chỉ rõ: “Đảng tôn trọng tính tự chủ, ủng hộ hoạt động tự nguyện, tích cực sáng tạo và chân thành lắng nghe ý kiến của mặt trận và các đoàn thể. Đảng, Nhà nước có cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để mặt trận và các đoàn thể nhân dân hoạt động có hiệu quả, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội”(9). Theo đó, tăng cường vai trò của giám sát và phản biện xã hội là biện pháp thiết thực để tăng cường quyền lực nhân dân, đồng thời tăng cường trách nhiệm của cơ quan, cán bộ, đảng viên trước nhân dân. Cơ chế này nếu thực hiện tốt sẽ đóng vai trò tích cực làm trong sạch bộ máy quyền lực, để thực sự mọi cán bộ trong cơ quan nhà nước đều là những công bộc tận tụy vì dân phục vụ, ngăn chặn bệnh xa dân.

 

Để làm được điều này cần tiếp tục xây dựng quy chế giám sát và phản biện xã hội (trực tiếp và gián tiếp) của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và chính quyền các cấp; trong đó có cơ chế giám sát và phản biện của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; cơ chế để Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. Cần củng cố và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tăng cường quyền hành và lực lượng nhân dân trong giám sát cũng như phản biện hoạt động các tổ chức đảng, chính quyền địa phương.

 

Mặt khác, cần nâng cao nhận thức của nhân dân trong việc giám sát và phản biện xã hội đối với các cơ quan quyền lực của Đảng, Nhà nước. Để thực hiện tốt quyền giám sát và phản biện xã hội đòi hỏi nhân dân phải có sự hiểu biết quyền, nghĩa vụ của công dân trong giám sát và phản biện xã hội, hiểu biết ngành, lĩnh vực mà mình tham gia. Phản biện xã hội phải trên cơ sở động cơ trong sáng, trí tuệ và trách nhiệm công dân cao. Do đó, cần nâng cao nhận thức trong quá trình nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình.

 

Sáu là, tiếp tục thực hiện cải cách hành chính công. Cải cách nền hành chính công là yêu cầu tất yếu của công cuộc đổi mới, mở cửa hội nhập. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, biện pháp để cải cách nền hành chính, nâng cao hiệu quả hoạt động phục vụ nhân dân của các cơ quan công quyền từ cấp Trung ương tới địa phương. Ví như, tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, tinh gọn bộ máy nhà nước, thực hiện chế độ “một cửa” trong thủ tục hành chính; ứng dụng công nghệ thông tin trong giải quyết công việc, quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ, viên chức; đề cao vai trò giám sát của nhân dân... Những nỗ lực trên đã đem lại những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đó, nền hành chính công còn bộc lộ nhiều hạn chế: sự cồng kềnh trong tổ chức, chồng chéo trong thực hiện chức năng của một số cơ quan, sự lạc hậu của một số văn bản hành chính so với thực tiễn; sự phiền hà, sách nhiễu của một số cán bộ cơ hội, thoái hóa, biến chất... Do đó, “tích cực thực hiện cải cách hành chính nhà nước và cải cách hành chính trong Đảng. Rà soát, loại bỏ những cơ chế, chính sách không còn phù hợp”(10) là yêu cầu bức thiết hiện nay. Ở phạm vi từng cơ quan, tổ chức, việc củng cố lại lề lối, phong cách, tác phong làm việc; việc kịp thời chấn chỉnh những lệch lạc trong phục vụ nhân dân là cần thiết để hạn chế, khắc phục bệnh xa dân. /.

------------------------------------

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 4, tr. 56

2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 12, tr. 510

3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật,  Hà Nội, 2012, tr. 22

4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 11, tr. 374

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, t. 4, tr. 161-162

6, 7, 8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, sđd, tr. 35, tr. 22, tr. 34

9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 87

10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, sđd, tr. 34