Để việc tự phê bình và phê bình theo yêu cầu Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI hiệu quả hơn

TS, Nguyễn Quốc Sửu, Học viện Hành chính, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh
21:50, ngày 26-01-2013
TCCSĐT - Sau một năm thực hiện Nghị quyết số 12-NQ/TW “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã có những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, vẫn còn đó những vấn đề cần tiếp tục thực hiện và thực hiện một cách quyết liệt, tỉnh táo để Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, trong đó, có vấn đề tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt đảng.
Tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt, xây dựng của Đảng

Tự phê bình và phê bình như tự mình soi gương và người khác soi cho mình để thấy được cái hay, cái dở, mặt ưu, mặt khuyết của mỗi đảng viên cũng như toàn Đảng. Nếu không có tự phê bình và phê bình thì mỗi cán bộ đảng viên nói riêng, toàn Đảng nói chung sẽ không biết mình có điểm mạnh để phát huy, khuyết điểm gì để sửa chữa, khắc phục. Đó là điều rất nguy hiểm, nó sẽ làm cho mỗi đảng viên cũng như toàn Đảng không thể trưởng thành, phát triển được, lâu dài tất yếu dẫn đến suy thoái.

Nhiều tài liệu nghiên cứu cũng như văn kiện của Đảng ta (1) - Đảng Cộng sản Việt Nam xác định tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên tắc cơ bản, là vũ khí sắc bén, là động lực, là quy luật của sự tồn tại và phát triển của Đảng. Điều này chứng tỏ công tác tự phê bình và phê bình có một vị trí quan trọng trong công tác xây dựng Đảng.

Lịch sử hơn 80 năm qua cho thấy: vì kiên trì nguyên tắc tự phê bình và phê bình mà Đảng ta mới tồn tại và phát triển như ngày nay. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập và rèn luyện Đảng ta luôn luôn nhấn mạnh nguyên tắc tự phê bình và phê bình qua lời nói và việc làm. Người là tấm gương sáng trong thực hiện nguyên tắc cơ bản này. Trong các tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” viết tháng 10-1947, đến “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” viết nhân kỷ niệm thành lập Đảng 3-2-1969, đến Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân trước lúc đi về cõi vĩnh hằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập đến vấn đề tự phê bình và phê bình một các toàn diện, sâu sắc, từ mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng, đến cách thức, phương pháp tự phê bình và phê bình đúng đắn, hiệu quả nhất. Theo Người:

- “Phê bình và tự phê bình là vũ khí rất cần thiết và sắc bén, nó giúp chúng ta sửa chữa sai lầm và phát triển ưu điểm”; “Mỗi cán bộ đảng viên, mỗi người phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng không có bệnh, mà Đảng sẽ khỏe mạnh vô cùng”; “Thang thuốc tốt nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình” (2).

- “Tự phê bình và phê bình phải thật thà vạch khuyết điểm, có lỗi mà không vạch ra, không khác gì người có bệnh mà không chịu khai với thầy thuốc...Vạch khuyết điểm để sửa chữa, cũng phải nêu ưu điểm để phát huy. Muốn tự phê bình và phê bình có kết quả, cán bộ các cấp nhất là cấp cao phải nêu gương trước”(3).

- "Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng, phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau". Bác căn dặn chúng ta: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(4).

Thực tế cho thấy: khi nào nguyên tắc tự phê bình và phê bình bị buông lỏng, sao nhãng, hoặc thực hiện không đúng với tinh thần, tư tưởng Hồ Chí Minh thì khi đó, tổ chức Đảng không thể vững mạnh, thậm chí rơi vào tình trạng suy thoái, nguy cơ mất còn đối với Đảng, với sự nghiệp Cách mạng của Đảng được đặt ra. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã báo động về nguy cơ này khi nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc...”. Tình trạng đó “đã làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, nếu không được sửa chữa sẽ là thách thức đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ”. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI đã vạch rõ những nguyên nhân khách quan và chủ quan của tình trạng trên đây, trong đó nhấn mạnh một nguyên nhân chủ quan: “các nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi vừa bị buông lỏng trong thực hiện, vừa chưa được quy định cụ thể để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát...”(5).

Liên hệ với thức tế công tác xây dựng Đảng nói chung, trong sinh hoạt đảng nói riêng trước khi có Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, việc tự phê bình và phê bình diễn ra thường xuyên, đều đặn trong các kỳ sinh hoạt ở chi bộ đảng. Nhưng thực chất ở nhiều tổ chức đảng buông lỏng, nặng tính hình thức, làm qua loa, lấy lệ, “dĩ hòa vi quý”. Nhiều buổi tự phê bình và phê bình biến thành những buổi tự khen mình và ca ngợi, tâng bốc, khen lẫn nhau, đặc biệt với đảng viên có chức có quyền, người phê bình có nói chút ít đến khuyết điểm, hạn chế nhưng chỉ là những thứ “vô thưởng vô phạt”, nói cho có ưu có khuyết. Rất hiếm khi tự mổ xẻ, bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém thực sự của mình, của đồng chí mình (về năng lực, trình độ, tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống). Đặc biệt, những sai lầm, khuyết điểm, kể cả tội lỗi thực sự mà mình biết, hoặc có dư luận (như tham nhũng, hối lộ, vô kỷ luật, vô nguyên tắc, quan hệ bất chính..) thì càng không thể và không dám nói ra. Phê bình theo lối: “cái tốt thì phô ra, cái xấu xa thì đậy lại”, triết lý “không đụng đến ta thì ta không đụng đến người” được ngầm thỏa thuận, hiểu với nhau... Có tình trạng đảng viên ít phát biểu trong sinh hoạt chi bộ, nhưng ngoài chi bộ lại nói trái với nghị quyết của Đảng, của chi bộ. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thái độ an phận, e dè, nể nang, ngại đụng chạm, thờ ơ, ngậm miệng, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh”... Thực tế có nhiều cán bộ, đảng viên, nhất là những người có chức có quyền mắc tội tham nhũng, hối lộ, sa đọa về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, nhưng hầu hết đều không do chi bộ, cơ quan, đơn vị tự phát hiện, tự đưa ra ánh sáng, mà phải đến khi bị lộ bởi tai mắt nhân dân, báo chí, sa lưới pháp luật thì chi bộ, cơ quan, đơn vị mới biết. Có thể nói nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong một thời gian dài, qua mấy nhiệm kỳ đại hội Đảng đã bị buông lỏng, bị hình thức hóa, những nguyên tắc, phương pháp, mục đích, ý nghiã thực sự của tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh bị vô hiệu hóa, bị vi phạm nghiêm trọng. Hậu quả là trong toàn Đảng đã có “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” gây mất niềm tin trong nhân dân. Nếu tình trạng này không được ngăn chặn, khắc phục sẽ là nguy cơ, thách thức đối với sự tồn vong của Đảng, của chế độ như Nghị quyết Trung ương 4 nhận định.

Nguyên nhân của yếu kém trong tự phê bình và phê bình, theo chúng tôi có hai điểm cơ bản:

Thứ nhất, là do bị chi phối bởi chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ, cơ hội và sự thiếu dân chủ trong Đảng, nên đảng viên không muốn, không dám tự phê bình và phê bình lẫn nhau một cách chân thành, thực sự. Do vậy, tâm lý thực dụng, cơ hội phát triển, người phê bình trung thực, thẳng thắn nói rõ khuyết điểm, tội lỗi của mình thì “lạy ông tôi ở bụi này”. Người muốn thẳng thắn phê bình, nói đúng sự thật yếu kém, khuyết điểm, tội lỗi của người khác thì sợ căng thẳng, mất lòng, “mất phiếu tín nhiệm”, cấp dưới càng không dám thẳng thắn phê bình cấp trên vì sợ bị trù dập, trả thù, “đấu tranh thì tránh đâu!”.

Thứ hai, công tác tổ chức của Đảng cũng thiếu những quy định cụ thể, thiết thực cho việc tự phê bình và phê bình để làm cơ sở cho công tác kiểm tra, giám sát của Đảng cũng như của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên. Cũng thiếu những cơ chế, quy định cụ thể để phát huy dân chủ trong Đảng và phát huy quyền làm chủ của người dân tham gia xây dựng Đảng. Ở nhiều tổ chức đảng hầu như “đóng cửa để bảo nhau”, công tác xây dựng Đảng nói chung, việc tự phê bình và phê bình nói riêng xem như là công việc nội bộ của Đảng, trong khi Đảng là lực lượng lãnh đạo quyết định vận mệnh của đất nước, của nhân dân.

Tự phê bình và phê bình theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 - những vấn đề đặt ra

Thực tiễn lịch sử xây dựng và phát triển của Đảng ta ngày càng cho thấy rõ tự phê bình và phê bình là nguyên tắc cơ bản, là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng ta. Nếu buông lỏng, xa rời nguyên tắc tự phê bình và phê bình, hay tự phê bình và phê bình một cách hình thức, qua loa, chiếu lệ đều gây hậu quả tai hại cho công tác xây dựng Đảng.

Nghị quyết Trung ương 4 đã đặt tự phê bình và phê bình lên vị trí hàng đầu và được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng coi là “khâu mấu chốt”, “có ý nghĩa và tầm quan trọng đặc biệt” trong 4 nhóm giải pháp để thực hiện mục tiêu: “Tạo sự chuyển biến rõ rệt, khắc phục được những hạn chế, yếu kém trong công tác xây dựng Đảng, nhằm xây dựng Đảng ta thật sự là đảng cách mạng chân chính, ngày càng trong sạch, vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin trong Đảng và nhân dân, động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi chủ trương, nghị quyết của Đảng”.

Nghị quyết Trung ương 4 đã tuân thủ và bám sát tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình và có nhiều điểm mới so với trước đây về cả nội dung, phạm vi, thời gian, lộ trình, phương pháp, cách làm trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình... Tất cả đều được tính toán kỹ lưỡng sao cho khoa học, cụ thể, rõ ràng, thiết thực, theo phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, khách quan, không nể nang, né tránh. Các giải pháp phải bảo đảm đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm, kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”, nói đi đôi với làm, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ nhất. Chỉ đạo và tổ chức thực hiện với quyết tâm chính trị cao trong toàn Đảng... Phải làm kiên quyết, kiên trì, xác định rõ lộ trình thực hiện, thời gian hoàn thành, làm từng bước vững chắc, thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt chẽ... Phải bình tĩnh, tỉnh táo, không nóng vội, cực đoan; đồng thời không để rơi vào trì trệ, hình thức, không chuyển biến được tình hình; giữ đúng nguyên tắc, không để các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội lợi dụng, kích động, xuyên tạc, đả kích gây rối nội bộ”(6).

Đặc biệt về cách làm, phương pháp kiểm điểm tự phê bình và phê bình lần này là rất khác, rất mới so với trước đây, thể hiện ở hai điểm nổi bật: Từ trên xuống (trước kia là từ dưới lên); dựa vào dân, công khai, minh bạch hơn (trước chủ yếu là tự phê bình và phê bình trong nội bộ Đảng).

Một là, làm từ trên xuống dưới, từ cơ quan, tổ chức đảng và người có chức vụ, quyền hạn cao nhất dần xuống cấp dưới. Như Nghị quyết Trung ương 4 ghi rõ: “Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy Đảng, cán bộ chủ chốt, nhất là cấp Trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương mẫu để cho các cấp noi theo”.

Thực tế một năm qua, từ sau khi Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI ra đời cho thấy nó đã và đang đi dần vào cuộc sống trên mọi lĩnh vực qua 4 nhóm giải pháp đồng bộ. Riêng về nhóm giải pháp kiểm điểm tự phê bình và phê bình về cơ bản đã và đang theo đúng tinh thần Nghị quyết, đúng sự chỉ đạo, đúng kế hoạch, chương trình, lộ trình và đã đạt những kết quả bước đầu. Đáng chú ý nhất là sự gương mẫu kiểm điểm tự phê bình và phê bình của Bộ Chính trị, Ban Bí thư diễn ra trong nhiều tuần lễ (bắt đầu từ ngày 12-7-2012) sau hơn 2 tháng chuẩn bị kỹ lưỡng. Kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, qua đó cho thấy: Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình với nhận thức và tâm thế bước vào đợt sinh hoạt chính trị đặc biệt, rất hệ trọng, vì sự trong sạch, vững mạnh của Đảng. Tập thể kiểm điểm trước, cá nhân kiểm điểm sau. Trong kiểm điểm cá nhân, Tổng Bí thư kiểm điểm trước, tiếp đến các ủy viên Bộ Chính trị là Chủ tịch nước, Thủ tướng, Chủ tịch Quốc hội, Thường trực Ban Bí thư và các ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư khác... Không khí thảo luận, góp ý tự kiểm điểm tự phê bình và phê bình đoàn kết, xây dựng, thẳng thắn và chân thành... Qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình và lắng nghe ý kiến của cán bộ, đảng viên và nhân dân, từng cá nhân và tập thể Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn ưu, khuyết của mình; đồng thời phân tích làm rõ nguyên nhân chủ yếu của những khuyết điểm, hạn chế, nhất là những khuyết điểm, hạn chế kéo dài qua một số nhiệm kỳ, từ đó tìm biện pháp khắc phục có hiệu quả... Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã đề ra phương hướng, giải pháp khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, trong đó nhấn mạnh: từng ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trước hết là các lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước cam kết với Ban Chấp hành Trung ương luôn thực sự gương mẫu, thực sự đoàn kết thống nhất, đặt lợi ích của Đảng lên trên lợi ích cá nhân, hết lòng vì Đảng, vì dân; giáo dục gia đình vợ (chồng) con, người thân, chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống. Từng người thực hành tự phê bình và phê bình thẳng thắn, thương yêu đồng chí, khắc phục ngay tình trạng nể nang, né tránh; gương mẫu học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; tăng cường giám sát, nhắc nhở nhau để sớm phát hiện, ngăn ngừa, xử lý những biểu hiện vi phạm Quy định 19 điều đảng viên không được làm.

Kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã được báo cáo trước Ban Chấp hành Trung ương tại Hội nghị lần thứ 6 khóa XI. Hội nghị Trung ương 6 đã nhất trí đánh giá kết quả kiểm điểm tự phê bình và phê bình của Bộ Chính trị, Ban Bí thư theo Nghị quyết Trung ương 4 cơ bản đạt yêu cầu.

thể nói đó là nét rất mới, chưa từng có, là bước tiến lớn trong công tác xây dựng, chỉnh đốn của Đảng ta. Bởi vì trước kia, hầu như cán bộ, đảng viên nói chung và nhân dân không hề được biết các cơ quan, tổ chức cao nhất của Đảng, các vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước có tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình không và làm như thế nào? Nay thì Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đặc biệt Tổng Bí thư đã đi đầu, làm trước, tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình thật sự, nghiêm túc để làm gương mẫu cho các cấp ủy đảng và đảng viên làm theo. Chúng ta cũng được thấy chưa bao giờ các ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư lại tiến hành kiểm điểm tự phê bình và phê bình cả trong vấn đề giáo dục gia đình, vợ (chồng) con, người thân trong việc chấp hành chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước như Bộ Chính trị, Ban Bí thư hiện nay đã làm. Đây là cách làm có sức thuyết phục, nếu ta đặt nó dưới góc nhìn lịch đại của lịch sử xây dựng Đảng!

Sau kiểm điểm tự phê bình và phê bình của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình đã được tiến hành dần xuống các cấp dưới, nhìn chung cũng diễn ra tương tự như cách Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã làm gương. Kiểm điểm tự phê bình và phê bình lần này sẽ được tiếp tục và làm thường xuyên, nơi nào chưa đạt yêu cầu phải làm lại; kiên quyết xử lý những cấp ủy, tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên không tự giác nhận và khắc phục những hạn chế, khuyết điểm đã nêu; đồng thời, lấy đây làm nền nếp để hàng năm kết hợp kiểm điểm thực hiện nhiệm vụ và lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong bộ máy của Đảng và Nhà nước.

Hai là, khác với trước đây, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung, kiểm điểm tự phê bình và phê bình nói riêng chỉ “làm nội bộ” theo kiểu “đóng cửa bảo nhau”, lần này Đảng ta chủ trương dựa vào dân, phát huy dân chủ, tăng cường công khai, minh bạch. Theo đó, việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình trong Đảng định kỳ sẽ có hình thức thích hợp thông báo cho cán bộ, đảng viên và nhân dân; định kỳ tổ chức để nhân dân đóng góp ý kiến xây dựng Đảng, phê bình cán bộ, đảng viên thông qua Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Đây là cách làm được nhân dân đồng tình ủng hộ và tích cực tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng nhằm củng cố niềm tin và tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân. Thực tiễn hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước từ sau khi Nghị quyết Trung ương 4 ra đời đến nay trong không khí dân chủ, công khai, minh bạch hơn trước kia rất nhiều, chứng tỏ “Nghị quyết của lòng Dân, ý Đảng” đã và đang đi vào cuộc sống. Qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình, nhiều tập thể, tổ chức đảng và cá nhân cán bộ, đảng viên từ cấp cao xuống thấp đã tự giác nhận và nghiêm túc sửa chữa khuyết điểm bằng những hành động, việc làm cụ thể; trong đó có cả những đảng viên, cán bộ trung cao cấp vi phạm nghiêm trọng đã bị xử lý kỷ luật Đảng, hoặc theo pháp luật của Nhà nước. Mọi người tin tưởng hơn khi những người đứng đầu Đảng và Chính phủ công khai xin lỗi trước toàn Đảng, toàn dân về những khuyết điểm, yếu kém trong công tác xây dựng và lãnh đạo của Đảng, trong việc quản lý điều hành đất nước; đồng thời hứa hẹn quyết tâm khắc phục, sửa chữa một cách có hiệu quả, thiết thực. Với thái độ nhiệt thành, thiết nghĩ: cách thức tự phê bình và phê bình nghiêm túc như vậy, toàn Đảng, toàn dân sẽ thấy một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất lộ diện như Nghị quyết Trung ương 4 khẳng định. Đó là điểm gặp gỡ của lòng Dân, ý Đảng!

Tuy nhiên, những kết quả của việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình mới chỉ là bước đầu, chưa thể nói là đã đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân. Dư luận còn băn khoăn, lo lắng về hiệu quả, chất lượng thật sự của việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình vừa qua. Nhiều người cho rằng việc mở rộng, phát huy dân chủ, sự tham gia của nhân dân còn hạn chế, chưa đúng mức, dẫn đến kết quả không như mong muốn. Nhiều cấp, nhiều ngành, qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình vừa rồi nhưng không thấy, hoặc rất ít nhận diện được “bộ phận không nhỏ” suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống.

Kiến nghị:

1- Cần tiến hành thật sự và nghiêm chỉnh việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình theo đúng tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như Nghị quyết Trung ương 4 và các chỉ thị, hướng dẫn của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về nhóm giải pháp kiểm điểm tự phê bình và phê bình.

2- Ngoài việc khuyến khích tự giác trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình, cần có cơ chế, quy định cụ thể để bắt buộc cán bộ đảng viên phải tự giác, thành khẩn trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình. Như quy định nội dung kiểm điểm tự phê bình và phê bình phải cụ thể, đầy đủ, chi tiết, không chung chung, từng điểm phải trả lời “có” hay “không có”, mức độ thế nào, chứng cứ...? Nếu xác định được việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình của đảng viên là thiếu trung thực thì phải bị xử lý nghiêm khắc theo kỷ luật Đảng. Nên có hình thức kỷ luật nào đó về hành vi “thiếu trung thực” trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình.

3- Có cơ chế, quy định cụ thể, thiết thực hơn nữa về kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên thực hiện chức trách, nhiệm vụ nói chung và việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình nói riêng.

4- Mở rộng, phát huy dân chủ hơn nữa trong Đảng và trong nhân dân tham gia xây dựng Đảng. Đặc biệt nên dựa hẳn vào dân để xây dựng Đảng nói chung, tham gia góp ý phê bình đảng viên nói riêng. Bởi vì công tác xây dựng Đảng nói chung, việc kiểm điểm tự phê bình và phê bình nói riêng là công việc rất khó khăn, phức tạp. Nếu không huy động được nhân dân tham gia công việc này thì không thể làm tốt được. Đó là điều chắc chắn.

Việc nhân dân tham gia xây dựng Đảng cũng là rất hợp đạo lý. Vì Đảng là lực lượng lãnh đạo, quyết định vận mệnh của đất nước, của nhân dân. Nhân dân đã từng gửi gắm niềm tin yêu vào Đảng Cộng sản Việt Nam, coi đó là Đảng của mình, và thường gọi là “Đảng ta”. Bởi đó là Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện với hơn 80 năm lịch sử vẻ vang đã có công lao to lớn với đất nước, mang lại nhiều quyền lợi thiết thực cho nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam không phải là “Đảng toàn dân”, nhưng Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, là đội tiên phong và đại biểu cho lợi ích, trí tuệ của toàn thể nhân dân và dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, người dân phải có quyền tham gia xây dựng Đảng, và Đảng phải có cơ chế, quy định cụ thể, thiết thực (không hình thức) để nhân dân tham gia xây dựng Đảng, phê bình, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên trong việc thực hiện chức trách nhiệm vụ của họ. Những cơ chế, quy định đó phải cụ thể, thiết thực để khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi, dễ làm cho người dân muốn tham gia đóng góp xây dựng Đảng. Làm được như thế không những hợp đạo lý mà còn hợp lòng dân, chắc chắn sẽ được nhân dân đồng tình, ủng hộ và tham gia tích cực. Bởi lẽ, lòng Dân và ý Đảng đã đồng hướng!./.
---------------------------------
(1) Xem: Ban chỉ đạo Trung ương 6 (2), Đảng, Bác Hồ về tự phê bình và phê bình (lưu hành nội bộ), Nxb. CTQG, H.2005.
(2) Sửa đổi lối làm việc (với bút danh X.Y.Z) do Nhà Xuất bản Sự thật xuất bản lần đầu tiên năm 1948.
(3) Bài nói chuyện tại Hội nghị tổng kết chiến dịch Lê Hồng Phong II (1950), Hồ Chí Minh toàn tập,Tập 6 (1950 - 1952)
(4) Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
(5), (6) Nghị quyết số 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay.