Một số giải pháp góp phần triển khai thực hiện có hiệu quả “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia” hiện nay

PGS, TS. HOÀNG XUÂN CHIẾN
Trung tướng, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
23:59, ngày 27-07-2020

TCCS - Trước yêu cầu, nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới, ngày 28-9-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”. Đây là chiến lược chuyên ngành quan trọng, cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng về quốc phòng, an ninh, thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược về xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với cán bộ, chiến sĩ Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (năm 2017) _Nguồn: Vnanet.vn

Những năm gần đây, tình hình thế giới, khu vực và trong nước có những diễn biến phức tạp, khó dự báo, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là trên Biển Đông, tiềm ẩn nhiều nguy cơ xảy ra xung đột vũ trang, chiến tranh cục bộ. Các nước lớn tiếp tục điều chỉnh chiến lược, cạnh tranh quyết liệt; tận dụng ưu thế về kinh tế, quân sự, khoa học - công nghệ, sử dụng “sức mạnh mềm”, “biên giới mềm”, không gian vũ trụ, không gian mạng để đẩy mạnh can dự, gây sức ép về chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, xâm phạm biên giới địa lý của các quốc gia khác, thậm chí mưu toan “vẽ lại” đường biên giới. Chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, làn sóng di dân khi có tình huống khủng hoảng ở các nước láng giềng... tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến chủ quyền lãnh thổ và công tác quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia (BGQG) của ta.

Sau gần 35 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn trên các lĩnh vực, trong đó có nhiệm vụ bảo vệ BGQG. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động và các nước có tham vọng về lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo tiếp tục đẩy mạnh hoạt động chống phá ta về nhiều mặt. Ở nhiều địa phương biên giới, kinh tế - xã hội vẫn còn khó khăn, trình độ dân trí thấp. Tình trạng di cư tự do, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, dịch bệnh diễn biến phức tạp; tội phạm về ma túy, tội phạm sử dụng công nghệ cao, tội phạm xuyên quốc gia, xuyên biên giới, tình trạng xuất, nhập cảnh trái phép, buôn lậu, gian lận thương mại... tiếp tục gia tăng với nhiều thủ đoạn tinh vi, khó kiểm soát. Công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên Biển Đông và việc quản lý, bảo vệ vùng biển phía Tây Nam đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Chủ quyền biên giới, an ninh hàng hải, an ninh hàng không và phát triển kinh tế biển của Việt Nam có nguy cơ bị đe dọa. Các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị lợi dụng vấn đề Biển Đông để xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, tác động trực tiếp đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, đảng viên và nhân dân cũng như công tác quản lý, bảo vệ BGQG.

Cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng tặng cờ Tổ quốc cho ngư dân và vận động ngư dân tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo _Nguồn: bienphong.com.vn

Trước bối cảnh trên, ngày 28-9-2018, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia” nhằm nghiên cứu, đánh giá, dự báo chính xác tình hình, đề ra đối sách đúng đắn, kịp thời; xác định mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc, phương châm chỉ đạo và nhiệm vụ, giải pháp sát đúng, cụ thể, hiệu quả. Nghị quyết có nhiều nội dung sâu sắc, toàn diện, khoa học, cách mạng, bao hàm nhiều vấn đề lớn, hệ trọng, liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh BGQG, đòi hỏi các cấp, các ngành, cả hệ thống chính trị tập trung quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc.

Nghị quyết số 33-NQ/TW xác định mục tiêu chung là: “Bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; bảo vệ hòa bình, an ninh, văn hóa, pháp luật, tính uy nghiêm và biểu tượng quốc gia tại biên giới, cửa khẩu; xây dựng biên giới quốc gia hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác và phát triển; bảo vệ, phòng thủ vững chắc biên giới quốc gia, góp phần phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại ở khu vực biên giới và cả nước”. Nghị quyết chỉ rõ quan điểm chiến lược: “Quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, của cả hệ thống chính trị và cả nước; dựa vào dân, lấy dân làm gốc, nhân dân là chủ thể, “mỗi người dân biên giới là một cột mốc sống”; lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt; Bộ đội Biên phòng là lực lượng chuyên trách, lực lượng chiến đấu đầu tiên, bám trụ đến cùng để bảo vệ và giữ vững biên giới quốc gia”. Đồng thời, Nghị quyết xác định: Sự nghiệp bảo vệ BGQG đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng và chỉ huy của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam, luật pháp và các điều ước quốc tế về BGQG mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập.

Để tổ chức thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”, Bộ Chính trị giao các tỉnh ủy, thành ủy các tỉnh, thành phố có biên giới, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn và đảng ủy trực thuộc Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, học tập và tổ chức thực hiện Nghị quyết phù hợp chức năng, nhiệm vụ. Đảng đoàn Quốc hội, Ban Cán sự đảng Chính phủ lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng, ban hành Luật Biên phòng Việt Nam và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan; bảo đảm ngân sách và chỉ đạo huy động nguồn lực để triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết. Quân ủy Trung ương chủ trì, phối hợp với Đảng ủy Công an Trung ương, Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Cán sự đảng Bộ Ngoại giao, Văn phòng Trung ương Đảng và các tỉnh ủy, thành ủy trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai thực hiện Nghị quyết; hướng dẫn, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết và định kỳ hằng năm báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư về kết quả thực hiện Nghị quyết.

Nghị quyết số 33-NQ/TW thể hiện sự phát triển về tư duy chiến lược của Đảng trong công tác lãnh đạo, quản lý, bảo vệ biên giới và là sự quan tâm, tin tưởng của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đối với lực lượng Bộ đội Biên phòng (BĐBP). Do đó, ngay sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP đã tổ chức học tập, quán triệt nghiêm túc Nghị quyết bằng nhiều hình thức với nhiều đối tượng khác nhau. Đến nay, 100% số tổ chức đảng, đơn vị trong BĐBP và 44/44 tỉnh, thành phố có biên giới đã tổ chức quán triệt, học tập và ban hành chương trình hành động thực hiện Nghị quyết. Cục Chính trị BĐBP xây dựng Đề cương phổ biến, quán triệt và tuyên truyền Nghị quyết số 33-NQ/TW; biên soạn chuyên đề “Quán triệt thực hiện Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia trong tình hình hiện nay” trong tài liệu Giáo dục chính trị chuyên ngành năm 2019. Chỉ đạo Học viện Biên phòng và các nhà trường chủ động nghiên cứu, biên soạn, bổ sung nội dung cơ bản của Nghị quyết vào giảng dạy cho học viên.

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP tham mưu cho Quân ủy Trung ương ban hành Chương trình hành động số 88-CTr/QUTW, ngày 30-1-2019, về “Thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28 tháng 9 năm 2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”; đồng thời, xây dựng Kế hoạch số 808-KH/ĐU, ngày 11-6-2019, của Đảng ủy BĐBP, về “Thực hiện Chương trình hành động của Quân ủy Trung ương về “Thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28 tháng 9 năm 2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia” trong Bộ đội Biên phòng”; tham mưu Bộ Quốc phòng báo cáo Chính phủ xây dựng Nghị quyết số 16/NQ-CP, ngày 29-4-2020, về “Ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28 tháng 9 năm 2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”. Tích cực triển khai đồng bộ và kết hợp chặt chẽ các biện pháp công tác biên phòng; chủ động hợp tác, phối hợp với lực lượng bảo vệ biên giới của Cam-pu-chia tham gia phân giới, cắm mốc, hoàn thành 84% khối lượng công việc, được ghi nhận bằng hai văn kiện pháp lý về biên giới là “Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985 và Hiệp ước bổ sung năm 2005 giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Vương quốc Cam-pu-chia”“Nghị định thư phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền giữa nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Cam-pu-chia”, ký ngày 5-10-2019, tại Hà Nội.

Bộ đội Biên phòng thường xuyên nắm chắc tình hình, triển khai thực hiện các chuyên án, kế hoạch phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn và làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; nhất là đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy, mua bán người, buôn lậu, gian lận thương mại,... Đổi mới tổ chức, phương thức hoạt động của lực lượng trinh sát biên phòng, lực lượng phòng, chống ma túy và tội phạm; triển khai nghiên cứu Đề án “Xây dựng lực lượng trinh sát kỹ thuật; đặc nhiệm phòng, chống tội phạm; kiểm soát cửa khẩu hiện đại, tiếp cận công nghệ 4.0”. Thực hiện cải cách thủ tục hành chính và duy trì nghiêm quy trình kiểm tra, kiểm soát, giám sát, xây dựng nền nếp chính quy tại các cửa khẩu; tham mưu Bộ Quốc phòng báo cáo Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 15/2019/QĐ-TTg, ngày 28-3-2019, “Về việc thực hiện thủ tục biên phòng điện tử tại các cửa khẩu do Bộ Quốc phòng quản lý”.

Công tác đối ngoại biên phòng được triển khai thực hiện linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả, trở thành điểm sáng trong quan hệ đối ngoại quốc phòng. Thường xuyên duy trì trao đổi, hội đàm theo 3 cấp (Bộ Tư lệnh BĐBP, BĐBP tỉnh, thành phố và đồn biên phòng) với lực lượng quản lý, bảo vệ biên giới, cửa khẩu của các nước tiếp giáp, nhằm giải quyết kịp thời các vụ việc xảy ra trên biên giới. Đẩy mạnh thực hiện và phát huy kết quả giao lưu hữu nghị quốc phòng, biên giới, giao lưu biên phòng và Chương trình “Biên cương thắm tình hữu nghị”; duy trì và nhân rộng mô hình kết nghĩa đồn, trạm biên phòng, kết nghĩa bản - bản hai bên biên giới(1), góp phần xây dựng và quản lý, bảo vệ biên giới hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Thiết lập và duy trì có hiệu quả cơ chế “đường dây nóng”, tuần tra chung, gặp gỡ, trao đổi thông tin, diễn tập liên hợp xử lý tình huống, tìm kiếm cứu nạn,...

Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP lãnh đạo, chỉ đạo bộ chỉ huy BĐBP các tỉnh, thành phố tăng cường tham mưu cho tỉnh ủy, thành ủy, ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố có biên giới và phối hợp, hiệp đồng với các cơ quan, ban, ngành, lực lượng ở khu vực biên giới (KVBG) triển khai thực hiện có hiệu quả các chương trình, đề án phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo bền vững, xây dựng kết cấu hạ tầng, chăm sóc sức khỏe, nâng cao đời sống vật chất và tinh thân của nhân dân ở KVBG. Tham mưu cho Quân ủy Trung ương báo cáo Ban Tổ chức Trung ương cơ cấu cán bộ BĐBP tham gia cấp ủy và hội đồng nhân dân các cấp. Các đồn biên phòng tiếp tục phân công cán bộ tăng cường cho xã và thực hiện đảng viên đồn biên phòng tham gia sinh hoạt tại chi bộ thôn, bản biên giới, gắn với trách nhiệm phụ trách hộ gia đình trên địa bàn(2); qua đó, góp phần củng cố, kiện toàn, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng ở KVBG. Tích cực triển khai thực hiện các chương trình, phong trào, mô hình, cuộc vận động có tính nhân văn và sức lan tỏa sâu rộng, tiêu biểu như các chương trình: “Bộ đội Biên phòng chung sức xây dựng nông thôn mới và tham gia xóa đói, giảm nghèo khu vực biên giới”, “Thầy thuốc quân hàm xanh”, “Thầy giáo quân hàm xanh - Nâng bước em đến trường”(3), “Con nuôi đồn biên phòng”(4), “Tặng cờ Tổ quốc và ảnh Bác Hồ cho ngư dân vươn khơi bám biển”..., tạo điều kiện cho nhân dân định canh, định cư, sinh sống ổn định lâu dài, bền vững ở KVBG gắn với tự quản đường biên giới, mốc quốc giới, đẩy mạnh phong trào “Toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới”.

Bộ đội Biên phòng Lai Châu đưa các em tới trường _Nguồn: vietnamplus.vn

***

Những năm tới, tình hình thế giới, khu vực dự báo tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường. Tình trạng vi phạm chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, nhất là trên Biển Đông ngày càng căng thẳng, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định. Trên các tuyến biên giới, vùng biển, các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, xuyên biên giới gia tăng hoạt động với những phương thức, thủ đoạn mới, khó kiểm soát; tội phạm công nghệ cao, mối đe dọa an ninh phi truyền thống đặt ra nhiều thách thức mới cho nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh BGQG. Ở trong nước, lợi dụng thời điểm tổ chức đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch, đối tượng phản động, cơ hội chính trị,... đẩy mạnh các hoạt động “diễn biến hòa bình”. Tình hình thời tiết, khí hậu, thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, đặc biệt là dịch bệnh COVID-19 đang ảnh hưởng nghiêm trọng tới đời sống kinh tế - xã hội, tính mạng, sức khỏe của nhân dân và cán bộ, chiến sĩ.

Trong bối cảnh đó, để tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”, các đơn vị BĐBP cần nêu cao trách nhiệm chính trị, đoàn kết, thống nhất, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai quyết liệt, đồng bộ các giải pháp cơ bản sau:

Một là, tiếp tục quán triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị, Chương trình hành động số 88-CTr/QUTW của Quân ủy Trung ương và Kế hoạch số 808-KH/ĐU của Đảng ủy BĐBP. Tổ chức quán triệt và xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện Nghị quyết số 16/NQ-CP, ngày 29-4-2020, của Chính phủ, về “Ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 28-9-2018 của Bộ Chính trị về Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”; chủ động tham mưu Bộ Quốc phòng phối hợp với các bộ, ban, ngành, địa phương có liên quan triển khai thực hiện các đề án, nhiệm vụ trong danh mục triển khai Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW. Tích cực xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách về quản lý, bảo vệ BGQG; triển khai nghiên cứu phương thức, phương án tổ chức, quản lý, bảo vệ BGQG trong tình hình mới; hoàn chỉnh xây dựng Luật Biên phòng Việt Nam trình Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 10 vào cuối năm 2020.

Hai là, thường xuyên nắm, nghiên cứu, dự báo sát đúng, toàn diện tình hình từ sớm, từ xa ở ngoại biên, trên biên giới, trên biển, cả chiều rộng, chiều sâu; chủ động phòng ngừa, ngăn chặn và đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hành động xâm phạm BGQG, phá hoại đường biên, mốc quốc giới; kịp thời tham mưu và xử lý linh hoạt, hiệu quả các tình huống, không để bị động, bất ngờ, lan rộng, kéo dài, bùng phát thành xung đột vũ trang, chiến tranh xâm chiếm biên giới trên đất liền, trên biển, đảo. Phối hợp với các ban, ngành, địa phương triển khai thực hiện tốt các văn kiện pháp lý về biên giới, trong đó chú trọng triển khai thực hiện trên thực tế 2 văn kiện pháp lý về tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Cam-pu-chia, đồng thời tiếp tục tham mưu và tham gia đàm phán phân giới, cắm mốc 16% khối lượng công việc còn lại.

Tăng cường quản lý, bảo vệ biên giới, kiểm soát cửa khẩu, lối mở trên biên giới; tiếp tục cải cách hành chính, thực hiện thủ tục biên phòng điện tử tại các cửa khẩu, kết nối với “một cửa” quốc gia, xây dựng Chính phủ điện tử trong BĐBP. Đẩy mạnh đầu tư trang bị, phương tiện kỹ thuật tiên tiến, hiện đại, công nghệ cao, công nghệ thông minh, tạo điều kiện thuận lợi cho người, phương tiện xuất, nhập cảnh, hàng hóa xuất, nhập khẩu tại các cửa khẩu, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. Chủ động xây dựng kế hoạch, phương án đối phó với các thách thức an ninh phi truyền thống, đấu tranh có hiệu quả với các loại tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, xuyên biên giới, nhất là tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, buôn lậu, mua bán người,...

Ba là, tăng cường hợp tác quốc tế, nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng, đối ngoại biên phòng và đối ngoại nhân dân trong bảo vệ BGQG. Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hợp tác, phối hợp với các nước láng giềng trong quản lý, bảo vệ biên giới; thực hiện tốt Đề án của Chính phủ về “Tăng cường hợp tác, phối hợp quản lý biên giới giữa Việt Nam với các nước láng giềng” và Đề án số 825-ĐA/QUTW, ngày 15-11-2016, của Quân ủy Trung ương, về “Tăng cường hợp tác quốc phòng Việt Nam - Lào, Việt Nam - Cam-pu-chia đến năm 2020 và những năm tiếp theo”. Chủ động hợp tác, phối hợp với lực lượng chức năng của các nước và các tổ chức quốc tế trong nghiên cứu, phát hiện và đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm, tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa ở KVBG. Tham mưu Bộ Quốc phòng tổ chức tốt các chương trình “Giao lưu hữu nghị quốc phòng biên giới Việt Nam - Trung Quốc”; “Giao lưu hữu nghị biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia” cấp Bộ Quốc phòng; “Giao lưu Biên cương thắm tình hữu nghị” giữa các lực lượng bảo vệ biên giới của 6 nước thuộc Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng.

Các chiến sĩ Bộ đội Biên phòng Việt Nam (bên phải) và Cam-pu-chia (bên trái) kiểm tra cột mốc biên giới tại Phước Tân, huyện Châu Thành, tỉnh Tây Ninh _Ảnh: Tư liệu

Bốn là, tham mưu đầu tư xây dựng các cụm dân cư biên giới, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở KVBG. Phối hợp với các lực lượng triển khai thực hiện các đề án, phương án, cơ chế thuộc Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 10-10-2017, của Bộ Chính trị, về “Phát triển kinh tế - xã hội các xã biên giới đất liền kết hợp với tăng cường và củng cố quốc phòng, an ninh, đối ngoại”. Chủ động báo cáo, đề nghị Chính phủ đầu tư xây dựng kè sông, suối biên giới, mốc quốc giới có nguy cơ sạt lở. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả Chỉ thị số 01/CT-TTg, ngày 9-1-2015, của Thủ tướng Chính phủ, “Về việc tổ chức phong trào toàn dân tham gia bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia trong tình hình mới”. Tham gia xây dựng hệ thống chính trị các cấp ở KVBG vững mạnh về mọi mặt, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Triển khai thực hiện tốt Đề án “Tăng cường cán bộ Bộ đội Biên phòng ra địa phương và tham gia cấp ủy các cấp”, phát huy vai trò của cán bộ BĐBP tăng cường cho các xã, đảng viên đồn biên phòng tham gia sinh hoạt chi bộ thôn, bản và phụ trách các hộ gia đình ở KVBG. Phối hợp với các lực lượng liên quan thực hiện chương trình phổ cập giáo dục, nâng cao dân trí cho nhân dân; đẩy mạnh thực hiện và phát huy có hiệu quả các phong trào, chương trình, mô hình với nội dung, hình thức, phương pháp linh hoạt, sáng tạo; giữ gìn, phát huy hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới.

Năm là, tham mưu xây dựng lực lượng bảo vệ biên giới rộng khắp theo phương châm “Nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt và Bộ đội Biên phòng là lực lượng chuyên trách quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia”. Bộ Tư lệnh BĐBP tham mưu Bộ Quốc phòng chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành, địa phương xây dựng lực lượng bảo vệ BGQG đồng bộ, cả lực lượng chuyên trách, nòng cốt và lực lượng toàn dân rộng khắp; trong đó, trọng tâm là xây dựng lực lượng BĐBP vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, giỏi chuyên môn, nghiệp vụ và pháp luật. Tăng cường trách nhiệm, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với công tác quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh BGQG, xây dựng thế trận biên phòng toàn dân trong thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc ở KVBG, trên biển và các hải đảo. Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương tiếp tục thực hiện tốt phong trào “Tổ an ninh tự quản đường biên giới, mốc quốc giới”; phát huy vai trò của già làng, trưởng bản, người có uy tín trong cộng đồng dân cư đối với việc vận động nhân dân tham gia quản lý, bảo vệ BGQG.

Nghị quyết số 33-NQ/TW của Bộ Chính trị chỉ rõ yêu cầu phải ổn định tổ chức, biên chế và xác định BĐBP là một quân chủng thuộc Bộ Quốc phòng, là lực lượng chuyên trách, cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số thành phần tiến thẳng lên hiện đại. Do đó, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh BĐBP chủ động đề xuất Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tham mưu với Đảng, Nhà nước có chủ trương, chính sách kịp thời, phù hợp nhằm củng cố, kiện toàn tổ chức, biên chế lực lượng BĐBP theo hướng tinh, gọn, mạnh, hiệu lực, hiệu quả. Chủ động, quyết liệt tổ chức thực hiện các đề án: “Tổ chức lực lượng Bộ đội Biên phòng giai đoạn 2017  - 2021 và những năm tiếp theo”, “Nâng cao năng lực quản lý, bảo vệ biên giới của Bộ đội Biên phòng”, “Quy hoạch hệ thống đồn, trạm biên phòng đến năm 2021 và những năm tiếp theo”; hoàn thành nghiên cứu và triển khai thực hiện Đề án “Xây dựng lực lượng trinh sát kỹ thuật; đặc nhiệm phòng, chống tội phạm; kiểm soát cửa khẩu hiện đại, tiếp cận cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”; triển khai nghiên cứu Đề tài “Nghiên cứu hoạt động quản lý, bảo vệ biên giới của Bộ đội Biên phòng trước thách thức an ninh phi truyền thống hiện nay”. Đầu tư xây dựng, hoàn thiện hệ thống đồn, trạm biên phòng, công trình bảo vệ biên giới, công trình chiến đấu liên hoàn, khép kín, kiên cố, vững chắc, bảo đảm đủ khả năng bảo vệ BGQG trong mọi tình huống. Quán triệt và triển khai thực hiện tốt đại hội đảng các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng. Đổi mới mạnh mẽ, nâng cao chất lượng huấn luyện, đào tạo và nghiên cứu khoa học; đẩy mạnh xây dựng chính quy, quản lý chặt chẽ chính trị nội bộ, siết chặt kỷ cương, kỷ luật, hạn chế vi phạm kỷ luật, mất an toàn giao thông trong toàn lực lượng./.

---------------------------------

(1) Tổ chức kết nghĩa đồn, trạm lực lượng vũ trang hai bên biên giới được 180 cặp/265 đồn biên phòng (tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc: 82 cặp; tuyến biên giới Việt Nam - Lào: 66 cặp; tuyến biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia: 32 cặp); kết nghĩa cụm dân cư: 205 cặp bản ở 21/25 tỉnh biên giới (tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc: 59 cặp; tuyến biên giới Việt Nam - Lào: 102 cặp; tuyến biên giới Việt Nam - Cam-pu-chia: 44 cặp)
(2) Hiện nay, có 332 cán bộ BĐBP tăng cường cho các xã biên giới đặc biệt khó khăn, trong đó có 258 đồng chí giữ chức danh trong cấp ủy, chính quyền; giới thiệu 1.560 đảng viên các đồn biên phòng tham gia sinh hoạt tại các chi bộ thôn, bản; phân công 9.661 đảng viên các đồn biên phòng phụ trách 42.247 hộ gia đình ở KVBG
(3) Các đơn vị BĐBP nhận đỡ đầu 2.573 em học sinh mồ côi, gia đình có hoàn cảnh khó khăn ở KVBG, trong đó có 107 em ở KVBG Lào và 119 em ở KVBG Cam-pu-chia; mức hỗ trợ là 500 nghìn đồng/tháng/em
(4) Các đơn vị BĐBP nhận nuôi 358 cháu trong Chương trình “Con nuôi đồn biên phòng”