TCCS - Ngày 27-1-1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam (gọi tắt là Hiệp định Pa-ri) được ký kết, đánh dấu mốc son thắng lợi của cuộc đấu tranh đàm phán ngoại giao lâu dài nhất, cam go nhất trong lịch sử cách mạng Việt Nam(1); thể hiện sự kiên định, bản lĩnh, trí tuệ và nghệ thuật ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Năm mươi năm qua, đất nước đã có nhiều đổi thay và đang tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, song những bài học sâu sắc của Hội nghị Pa-ri vẫn vẹn nguyên giá trị.

Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, ngày 27-1-1973, tại Trung tâm hội nghị quốc tế ở Thủ đô Paris (Pháp) _Ảnh: tư liệu TTXVN

Một số bài học kinh nghiệm quý báu

Thứ nhất, luôn đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc lên hàng đầu; kiên quyết bảo vệ và khuếch trương thắng lợi chính trị, quân sự trên bàn đàm phán. Nguyên tắc trong đấu tranh ngoại giao là lập trường cơ bản, xuyên suốt quá trình đàm phán. Kiên trì thực hiện nguyên tắc giúp cho cuộc đấu tranh ngoại giao giữ đúng định hướng. Mọi bước đi trong đàm phán, điều khoản được ký kết đều bám sát nguyên tắc; đây cũng là tiêu chí phân biệt sự nhân nhượng hay thỏa hiệp, đầu hàng trong đàm phán và ký kết các văn bản.

Ngay từ đầu, Đảng ta đã xác định, nguyên tắc bất biến trong đấu tranh với Mỹ tại Hội nghị Pa-ri là kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ - giá trị thiêng liêng, không thể nhân nhượng dưới mọi hình thức, kể cả khi cuộc đàm phán bị rơi vào bế tắc trong một thời gian dài, có nguy cơ đổ vỡ, thậm chí phải chấp nhận đương đầu với các hành động quân sự ở mức cao nhất. Giữ vững nguyên tắc này, khi Mỹ luôn đòi hỏi, đánh đồng việc rút quân đội Mỹ và đồng minh khỏi miền Nam thì miền Bắc cũng phải rút quân, Việt Nam luôn phê phán và kiên quyết bác bỏ. Không thể đặt quân đội đi xâm lược ngang hàng với lực lượng chống xâm lược. Mỹ xâm lược Việt Nam thì Mỹ phải rút quân. Nhân dân Việt Nam đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược trên mọi miền đất nước. Với nguyên tắc đó, các lực lượng vũ trang ở miền Bắc có thể đánh Mỹ ở bất cứ nơi nào trên đất nước Việt Nam. Việt Nam chỉ ký kết Hiệp định Pa-ri với điều kiện quân đội Mỹ rút khỏi miền Nam và quân đội Việt Nam từ miền Bắc vẫn ở lại miền Nam. Điều này được thể hiện rõ trong Hiệp định, tất cả các bên phải thừa nhận, tuân thủ và dư luận quốc tế đồng tình, ủng hộ.

Tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” được thể hiện nhất quán trên mặt trận quân sự, chính trị và đấu tranh ngoại giao. Sức mạnh chính trị, quân sự là hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh trên bàn đàm phán. Đấu tranh ngoại giao dựa vững trên lập trường chính nghĩa và thắng lợi chính trị, quân sự, đồng thời phải phát huy, chuyển hóa thắng lợi trên chiến trường thành lợi thế trong đàm phán. Vận dụng vào cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Pa-ri, dù đàm phán kéo dài, Việt Nam vẫn kiên quyết, kiên trì đạt bằng được mục tiêu buộc Mỹ phải chấm dứt đánh phá miền Bắc, rút quân đội khỏi miền Nam; vấn đề các lực lượng vũ trang Việt Nam ở miền Nam do các bên Việt Nam giải quyết. Nguyên tắc này cũng là mục tiêu đấu tranh ngoại giao của Việt Nam tại Hội nghị Pa-ri, phục vụ mục tiêu “đánh cho Mỹ cút”, tiến đến “đánh cho ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Thắng lợi của ta trên cả hai chiến trường Nam - Bắc,  tiêu biểu là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968, buộc Mỹ phải thay đổi chiến lược, xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán với ta một cách nghiêm túc. Thắng lợi tại chiến trường, đặc biệt, chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” vào những ngày cuối cùng năm 1972, là đòn quyết định làm thay đổi cục diện cuộc chiến, buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri trong thế bất lợi. Trên cơ sở những thắng lợi trên chiến trường, sự kiên định nguyên tắc cùng nghệ thuật đấu tranh ngoại giao mưu lược và linh hoạt đã được Đảng ta phát huy đúng lúc, đúng tầm, tạo nên lợi thế và chiến thắng trong đấu tranh ngoại giao.

Kiên định, kiên quyết về nguyên tắc, Việt Nam luôn giữ vững thế tiến công trên bàn hội nghị, không bị lung lay trước những đòn tiến công ngoại giao hết sức tinh vi, xảo quyệt và có bề dày kinh nghiệm của Mỹ; cũng như không bất ngờ trước những bước leo thang quân sự của Mỹ, hòng tạo lợi thế trên bàn đàm phán. Kiên trì về nguyên tắc còn là việc giữ vững sự độc lập, tự chủ trong đấu tranh ngoại giao, tránh được những tác động bất lợi, sự can thiệp và ý đồ trục lợi từ bên ngoài.

Thứ hai, mềm dẻo, linh hoạt về sách lược và nghệ thuật đấu tranh; lựa chọn đúng thời cơ để bắt đầu đàm phán, biết giành thắng lợi từng bước, đi đến ký kết Hiệp định Pa-ri trên thế thắng. Nếu như kiên trì về nguyên tắc giúp giữ vững định hướng đấu tranh, bám sát và đạt được mục đích cuối cùng, cơ bản, thì mềm dẻo trong việc vận dụng sách lược lại là phương cách để đạt được mục đích. Đó là thành công lớn trong nghệ thuật chỉ đạo đấu tranh ngoại giao của Đảng ta tại Hội nghị Pa-ri.

Trong đấu tranh ngoại giao, giữ vững nguyên tắc, đồng thời phải mềm dẻo trong vận dụng sách lược, sáng tạo về nghệ thuật đấu tranh, biết chấp nhận nhân nhượng một cách có nguyên tắc trên một số nội dung cụ thể. Nếu chỉ kiên trì nguyên tắc đến mức cứng nhắc mà không biết vận dụng sách lược một cách mềm dẻo thì sẽ không xử lý được các tình huống luôn thay đổi trong quá trình đấu tranh, không tận dụng được thời cơ để tiến công địch. Ngay từ Hội nghị Trung ương 13 (tháng 1-1967), Trung ương Đảng đã chỉ rõ: “Chúng ta cần vận dụng sách lược ngoại giao một cách linh hoạt, khôn khéo”. Sự mềm dẻo, linh hoạt về sách lược, về phương pháp và hình thức đấu tranh gắn với mục tiêu cụ thể trong từng giai đoạn, từng tình thế, giành thắng lợi từng bước, trên từng nội dung, điều khoản để đi đến thắng lợi cuối cùng. Giành thắng lợi từng bước luôn bám sát mục tiêu chiến lược, nội dung quyết định có tính nguyên tắc. Nghệ thuật chỉ đạo chiến lược của Đảng là lợi dụng mọi khả năng giành thắng lợi từng bước tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn, và cuộc đấu tranh ngoại giao của ta tại Hội nghị Pa-ri thể hiện sự thành công của nghệ thuật đó.

Khi quyết định mở mặt trận ngoại giao, chủ trương đưa Mỹ vào cục diện “vừa đánh, vừa đàm”, ta tìm cách buộc Mỹ phải ngồi vào đàm phán với điều kiện Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom miền Bắc và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên, phía Mỹ ngoan cố và ngạo nghễ tự tin về sức mạnh quân sự nên chưa chấp thuận xuống thang chiến tranh. Đến khi gặp tổn thất nặng nề, choáng váng trên chiến trường và bị sức ép dư luận từ nhiều phía, ngày 31-3-1968, Tổng thống Mỹ L.B. Giôn-xơn buộc phải ra lệnh hạn chế ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, sẵn sàng cử đại diện đối thoại với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Trong tình thế đã thay đổi có lợi cho ta, Hội nghị Bộ Chính trị ngày 2-4-1968 xác định, về vận dụng sách lược, chúng ta cần có sự khôn khéo giành cơ hội để thắng Mỹ từng bước, từ đó chủ trương ra tuyên bố đồng ý nói chuyện với Mỹ, nhưng là để “xác định với phía Mỹ việc Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để có thể bắt đầu cuộc nói chuyện”(2). Vào cuối giai đoạn này, ta đã tạm gác yêu cầu chỉ họp hội nghị bốn bên nhưng với điều kiện Mỹ phải nói chuyện với đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn phải thay đổi chính sách. Ta cũng không đặt yêu cầu Mỹ phải chính thức tuyên bố công khai việc ngừng ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa không điều kiện. Bởi vì, lúc này chính quyền Tổng thống Mỹ L.B. Giôn-xơn đã có những bước nhân nhượng trong đàm phán (chấp nhận sự tham gia của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam trong cuộc nói chuyện mở rộng ở giai đoạn hai), sẵn sàng chấm dứt ném bom miền Bắc (để tranh thủ người dân, phục vụ cho cuộc bầu cử tổng thống Mỹ).

Trong giai đoạn đầu tiên của cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Pa-ri (13-5-1968 - 31-10-1968), ta đấu tranh đòi Mỹ phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và bắn phá miền Bắc. Tuyên bố ngày 31-10-1968 của Tổng thống Mỹ L. B. Giôn-xơn về chấm dứt hoàn toàn việc ném bom và bắn phá miền Bắc mà không đòi hỏi một điều kiện “có đi, có lại” nào cũng có nghĩa là Mỹ chấm dứt ném bom không điều kiện. Đó chính là điều mà ta đang cần để có thời gian củng cố hậu phương miền Bắc, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu tiếp theo. Mỹ cũng phải chấp nhận ngồi nói chuyện trực tiếp với đại diện Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam - lực lượng quan trọng mà Mỹ cố tình tránh mặt, phủ nhận trước đó.

Trong giai đoạn thứ hai, ta đấu tranh với Mỹ tại Hội nghị Pa-ri nhằm mục tiêu chủ yếu là tác động để Mỹ rút quân nhanh, góp phần đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Đây là giai đoạn đấu tranh giằng co ở các phiên họp chính thức xen kẽ thương lượng bí mật giữa Việt Nam và Mỹ. Đến đầu năm 1972, những thắng lợi về quân sự của ta chưa đủ để xoay chuyển hẳn tình thế, áp đảo đối phương trên bàn thương lượng. Phía Mỹ cũng muốn tận dụng cơ hội để rút quân “nhỏ giọt”, xây dựng ngụy quân, củng cố ngụy quyền. Trong tình hình đó, ta không bất ngờ trước sự ngoan cố, lật lọng, cố tình trì hoãn của phía Mỹ muốn áp đặt bằng quân sự, lợi dụng các vấn đề của Việt Nam để mặc cả với một số nước gây sức ép với ta. Ta dùng nhiều phương thức đấu tranh kết hợp để khuếch trương những thắng lợi quân sự, chính trị; vận dụng sách lược mềm dẻo, lựa chọn thời điểm đưa ra những đòn tiến công nhằm tác động đến dư luận nước Mỹ và thế giới, làm phân hóa sâu sắc nội bộ chính quyền Mỹ, nội bộ ngụy quyền Sài Gòn và nội bộ Mỹ - ngụy, hỗ trợ cho đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị tại miền Nam. Hai đoàn ngoại giao của ta ở Thủ đô Pa-ri (Pháp) đã phối hợp nhuần nhuyễn giữa đấu tranh ở các phiên họp công khai (đoàn Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam thường chủ động đưa ra các yêu cầu, giải pháp hay sáng kiến mới) với đấu tranh ở các cuộc gặp riêng (giữa đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ). Đấu tranh công khai để tranh thủ dư luận. Đấu tranh tại các cuộc gặp riêng để thăm dò đối phương, vận dụng sách lược mềm dẻo để đưa ra những thỏa hiệp có nguyên tắc. Ta đưa ra các giải pháp đúng thời điểm và nội dung giải pháp bám sát đòi hỏi của dư luận, nhất là dư luận nước Mỹ. Thời điểm thích hợp để tiến công ngoại giao thường căn cứ vào đấu tranh quân sự ở trong nước, vào các dịp vận động bầu cử tổng thống, bầu cử quốc hội, mở đầu năm học của các trường đại học ở Mỹ... Nội dung là những vấn đề mà dư luận Mỹ quan tâm, như tù binh Mỹ bị bắt ở Việt Nam, thời hạn rút hết quân đội Mỹ ở Việt Nam. Nhưng để dư luận hiểu được thiện chí của Việt Nam thì tùy từng thời điểm, tình thế, ta rút bớt các yêu cầu trên từng nội dung cụ thể một cách có nguyên tắc. Trong các giải pháp đưa ra tại các cuộc họp công khai và các cuộc gặp riêng, lúc đầu ta yêu cầu Mỹ phải “từ bỏ việc duy trì ngụy quyền hiếu chiến và hủ bại ở miền Nam Việt Nam”(3) (Giải pháp toàn bộ 10 điểm, ngày 8-5-1969); sau đó, để phân hóa kẻ thù, ta yêu cầu Mỹ từ bỏ sự ủng hộ đối với chính quyền Sài Gòn (đề nghị 8 điểm nói rõ thêm về giải pháp cho vấn đề Việt Nam, ngày 14-9-1970). Tiếp đến, trong giải pháp 7 điểm (ngày 1-7-1971), ta đề nghị chính quyền Sài Gòn không có Nguyễn Văn Thiệu, nhằm  phân hóa nội bộ của chính quyền ngụy. Thắng lợi ngoại giao ở bước đi này đã tác động mạnh mẽ đến dư luận, buộc chính quyền Mỹ phải rút quân nhanh trong khi quân đội Sài Gòn chưa đủ mạnh; đồng thời, ta giành được thời gian quý báu để phát triển thế và lực trên cả hai miền Nam - Bắc.

Bước sang giai đoạn thứ ba, ta đấu tranh buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri, rút hết quân đội Mỹ và quân đồng minh khỏi miền Nam Việt Nam. Xét về thế và lực, thắng lợi của Chiến dịch Xuân - Hè năm 1972 mới đủ độ tạo thế vững để ta đi vào giải pháp thực chất với Mỹ. Tuy nhiên, tình hình quốc tế thời điểm đó lại có những thay đổi quan trọng. Sự chuyển động của “tam giác chiến lược” Mỹ - Liên Xô - Trung Quốc lúc này không có lợi cho cuộc kháng chiến của ta. Trong cuộc họp ngày 17-9-1972, Bộ Chính trị quyết định nới lỏng vấn đề chính trị ở miền Nam để tập trung vào vấn đề quân sự với mục đích tiến tới ký kết một hiệp định buộc Mỹ phải rút quân khỏi miền Nam và chấm dứt ném bom, bắn phá miền Bắc. Lúc này, ta không yêu cầu xóa bỏ chính quyền Sài Gòn, đòi Nguyễn Văn Thiệu phải từ chức, mà chỉ đưa ra yêu cầu về một cơ cấu chính quyền hòa hợp, hòa giải dân tộc. Bản Dự thảo Hiệp định Pa-ri được hai bên thông qua vào ngày 20-10-1972 và Hiệp định chính thức được ký kết vào ngày 27-1-1973 đã thể hiện sự nhân nhượng trên một số nội dung không căn bản.

Đối với Mỹ, việc chấm dứt ném bom đánh phá miền Bắc, rút hết quân đội Mỹ và đồng minh ra khỏi miền Nam, thừa nhận sự tồn tại của Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam là một bước lùi lớn. Thực tế chiến trường cho thấy quân ngụy chưa đủ mạnh để tự đối phó với lực lượng của ta, thêm vào đó, việc Mỹ rút quân khiến ngụy quyền càng hoang mang, dao động.

Đối với ta, mặc dù mục tiêu lớn nhất của cuộc đấu tranh là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhưng ta chấp nhận trên văn bản Hiệp định sự tồn tại tạm thời ở miền Nam Việt Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát. Ta cũng rút yêu cầu lập chính phủ hòa hợp dân tộc ba thành phần, đồng ý thành lập Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc. Sau khi đánh bại hoàn toàn cuộc tập kích đường không 12 ngày đêm của Mỹ, ta vẫn tiếp tục đấu tranh, thương lượng trên những vấn đề đã thỏa thuận để đi đến ký kết Hiệp định. Bởi lẽ, như Bộ Chính trị phân tích: “Tuy nói Mỹ phải ra vì thua, vì yếu, nhưng ta biết rằng Mỹ vẫn còn tiềm lực lớn và nhiều mưu đồ độc ác. Ta không bao giờ chủ quan mà cho rằng chúng đã “sức tàn lực kiệt”. Ta tuy thắng liên tiếp và đã mạnh lên, nhưng còn gặp nhiều khó khăn... Điều quan trọng của Hiệp định Pa-ri không phải là ở chỗ thừa nhận hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, tiến tới thành lập chính phủ ba thành phần, mà mấu chốt là ở chỗ quân Mỹ  rút lui còn quân ta thì ở lại, hành lang Nam - Bắc vẫn nối liền, hậu phương gắn với tiền phương thành một dải liên hoàn thống nhất; thế trận tiến công của ta vẫn vững. Ý định của ta là giữ nguyên thế và lực của mình ở miền Nam để tiến lên tiếp tục tiến công địch”(4)

Việc vận dụng sách lược trong đấu tranh ngoại giao cần phải biết tận dụng những cơ hội dù là nhỏ nhất, biết nhân nhượng đối phương khi cần thiết để đạt được mục tiêu chính cho từng giai đoạn, tiến tới mục tiêu cuối cùng của cách mạng. Nhân nhượng những điều trước mắt để xây dựng cho kế hoạch lâu dài. Diễn biến cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Pa-ri cho thấy, mỗi lần ta nhân nhượng mang tính sách lược là mỗi lần cuộc đàm phán phá vỡ được sự bế tắc và được dư luận hết sức đồng tình. Bằng trí tuệ, bản lĩnh và năng lực phân tích khoa học, ta đã nắm bắt những thời điểm quan trọng, có những quyết sách kịp thời, lái cuộc đàm phán theo hướng có lợi nhất.

Thứ ba, giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ trong hoạt động ngoại giao; kiên trì đoàn kết quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn bè, các lực lượng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới. Việt Nam bước vào đàm phán với Mỹ trong bối cảnh tình hình quốc tế diễn biến phức tạp, Chiến tranh lạnh diễn ra gay gắt, quan hệ Liên Xô - Trung Quốc căng thẳng, những toan tính chiến lược của các nước lớn là những nhân tố bất lợi với ta. Rút kinh nghiệm từ Hội nghị Giơ-ne-vơ năm 1954, ta xác định giữ độc lập, tự chủ trong kế sách đánh - đàm với Mỹ tại Hội nghị Pa-ri; thẳng thừng bác bỏ quan điểm “đàm phán qua trung gian” của Mỹ, phê phán mưu đồ của Mỹ định giải quyết vấn đề Việt Nam thông qua một nước thứ ba; đồng thời, chủ động, kiên quyết và khôn khéo để không trở thành “quân cờ” của các nước lớn, không để các nước khác mang thành quả đấu tranh của nhân dân Việt Nam để “mặc cả” với nhau vì lợi ích hẹp hòi của họ.

Ta trân trọng, tham khảo ý kiến của các nước bạn bè, nhưng ta tự quyết định phương sách đấu tranh giành thắng lợi, tự quyết định thời cơ bắt đầu và từng bước đi bài bản của đàm phán.

Thời kỳ khó khăn nhất đối với ta là lúc chính quyền Mỹ đi vào hòa hoãn với Liên Xô và Trung Quốc (năm 1972) vừa nhằm ép hai nước giảm sự giúp đỡ với Việt Nam, vừa nhằm thúc đẩy sự can thiệp của hai nước đối với cuộc đàm phán của Việt Nam theo hướng có lợi cho Mỹ. Song, ta đã khẳng định rõ quan điểm với Mỹ: “Các bạn chúng tôi hết lòng ủng hộ nhưng không làm thay chúng tôi được”(5).

Trong suốt cuộc đàm phán, ta phát huy được độc lập, tự chủ là do có đường lối chung đúng đắn, chủ động về đường lối quân sự và đường lối ngoại giao, không để một sức ép bên ngoài nào tác động; ta hiểu chiến lược và các chiêu bài, thủ đoạn trong đàm phán, điểm mạnh, điểm yếu của Mỹ. Về cơ bản, ta nắm được chiều hướng chung của tình hình quốc tế; rút kinh nghiệm lịch sử và có bước trưởng thành trong ngoại giao; nhờ đó, đã hạn chế đến mức thấp nhất tác động tiêu cực từ những đồng minh chiến lược, tranh thủ tối đa sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước anh em, các lực lượng hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới.

Nhìn một cách tổng quát, Đảng ta đã giải quyết khá thành công mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia - dân tộc và lợi ích quốc tế; nhờ đó, đã đạt kết quả quan trọng trong suốt năm năm đằng đẵng đấu trí, đấu lực với một đối phương được xem là hùng mạnh nhất toàn cầu. Ta đã xử lý một cách khéo léo, hài hòa mối quan hệ giữa kiên quyết giữ vững độc lập, tự chủ với kiên trì đoàn kết quốc tế, tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của nhân dân các nước, các lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới, xây dựng mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam, tạo nên sức mạnh mới ngày càng lớn mạnh cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ta đã mở mặt trận ngoại giao nhân dân, được nhiều quốc gia, tổ chức quốc tế và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ lập trường của ta và tố cáo thái độ lật lọng của Mỹ. Ta mở mặt trận ngoại giao trong lòng địch; phong trào phản đối đế quốc Mỹ gây chiến tranh ở Việt Nam được khơi dậy và phát triển rộng khắp ngay cả trong nước Mỹ và các đồng minh của Mỹ. Ta lợi dụng mâu thuẫn giữa kẻ thù, giữa đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai của chúng tại miền Nam Việt Nam. Sức mạnh đoàn kết quốc tế rộng lớn đó là tiền đề để Việt Nam giữ vững độc lập, tự chủ trong đấu tranh ngoại giao trong suốt quá trình diễn ra Hội nghị Pa-ri.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu tham quan trưng bày tư liệu và hình ảnh lịch sử tại Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày ký Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Việt Nam (27-1-1973 - 27-1-2023) _Ảnh: TTXVN

Tiếp tục vận dụng sáng tạo trong bối cảnh mới

Ngày nay, tình hình quốc tế đã có nhiều thay đổi, song những bài học về đường lối đối ngoại và nghệ thuật đàm phán Hội nghị Pa-ri vẫn luôn sống động và có giá trị thiết thực. Trong xu hướng vừa hợp tác, vừa đấu tranh, rất cần thiết tiếp tục vận dụng những bài học đó một cách khôn khéo, mềm dẻo, sáng tạo, gắn với những nhân tố mới, xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh mới cụ thể, phù hợp với lợi ích và đặc thù của nước mình để phát triển đất nước, tham gia hội nhập quốc tế.

Một là, giữ vững tinh thần độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế, vận dụng linh hoạt trong bối cảnh mới. Ngoại giao độc lập, tự chủ là một chuẩn mực thể hiện quyền độc lập thực sự của một quốc gia. Tinh thần và bản lĩnh độc lập, tự chủ được Chủ tịch Hồ Chí Minh hun đúc: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”(6). Độc lập, tự chủ là cơ sở vững chắc, nguồn gốc của mọi chủ trương, chính sách, là phương thức khơi dậy mọi nguồn lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Độc lập, tự chủ trong ngoại giao không chỉ dừng lại ở việc chủ động hoạch định chính sách, biện pháp, mà điều quan trọng là chủ động khai thác, phát huy nội lực trên tinh thần tự lực, tự cường. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, độc lập, tự cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc luôn luôn là nguyên tắc bất biến, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của chúng ta(7).

Hiện nay, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng đã và đang đặt ra những thách thức lớn không chỉ riêng với nước ta về tính độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế. Môi trường đối ngoại đang chuyển biến ngày càng nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo cả về an ninh, chính trị, kinh tế, đan xen nhiều cơ hội và thách thức. Đảng ta đã nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn những đặc điểm của môi trường quốc tế, cũng như các hệ thống công cụ, quyền lực được sử dụng để chi phối, kiểm soát và vận dụng linh hoạt trong quá trình hội nhập quốc tế. Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021) xác định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại”(8). Đây là nguyên tắc “bất biến”, là đường lối đối ngoại nhất quán của Đảng, một quan điểm chỉ đạo cao nhất nhằm thực hiện tầm nhìn và định hướng phát triển đất nước. Mục tiêu của đối ngoại trong thời kỳ mới là bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nêu rõ “mục tiêu tối thượng” trong công tác đối ngoại là: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(9); đồng thời, khẳng định rõ lợi ích quốc gia - dân tộc luôn được quan tâm và xác định là mục tiêu trọng yếu trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, bao gồm nhiều yếu tố lợi ích: chính trị, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh...., trong đó lợi ích cao nhất của quốc gia - dân tộc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Hai là, nhất quán phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến” trong hoạt động đối ngoại. Giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, Đại hội XIII của Đảng đồng thời nhấn mạnh, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; thúc đẩy hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả. Nội hàm cụ thể của nguyên tắc độc lập, tự chủ luôn được bổ sung, phát triển, đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phù hợp với chuyển biến mới của thế giới và khu vực. Kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ phải được thực hiện bằng chính sách phù hợp, khôn khéo theo tinh thần “vạn biến” trong những thời điểm hết sức khó khăn, phức tạp.

“Dĩ bất biến ứng vạn biến” là lấy cái không thể thay đổi (bất biến) để ứng phó với muôn sự thay đổi (vạn biến). Theo đó, cái “bất biến” là lợi ích của quốc gia - dân tộc, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia,... đóng vai trò cốt lõi; cái “vạn biến” là cách ứng phó tài tình, khéo léo, linh hoạt, kết hợp hài hòa giữa mềm dẻo và kiên quyết, giữa chiến lược và sách lược, giữa cương và nhu, giữa chủ động và sáng tạo trong những tình huống cụ thể. Để thực hiện “ứng vạn biến”, điều quan trọng là phải đánh giá đúng tình hình quốc tế và sự tác động đối với nước ta, cả mặt thuận lợi và khó khăn; phải kiên quyết và kiên nhẫn, kỷ luật và tinh tế trong công tác đối ngoại và hoạt động ngoại giao. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt”(10). Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng yêu cầu ngành ngoại giao phải luôn luôn quán triệt quan điểm chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, rằng “phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ” để luôn làm chủ tình thế; hiểu rõ vị trí chiến lược của Việt Nam trong mối quan hệ giữa các nước lớn. Phải đặc biệt coi trọng việc xử lý khéo léo quan hệ với các nước, nhất là các nước láng giềng và các nước lớn; luôn chủ trương tôn trọng và giữ thể diện cho nước lớn; luôn luôn phải “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế” để “cương nhu kết hợp” vì lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc(11).

Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Chúng ta đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam. Đó là: Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo, nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân. Đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt”!(12).

Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín của quốc gia trên trường quốc tế và trong quan hệ với các nước theo đúng tinh thần Đại hội XIII của Đảng: “Gắn kết chặt chẽ quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng với việc nâng cao sức mạnh tổng hợp, huy động tiềm năng của toàn xã hội; đổi mới, hoàn thiện thể chế trong nước, nâng cao năng lực tự chủ, cạnh tranh và khả năng thích ứng của đất nước”(13). Phải tạo thực lực cho ngoại giao, “chuông có to thì tiếng mới lớn”. Những thành tựu đạt được của hơn 35 năm đổi mới đã tạo dựng cơ đồ, tiềm lực to lớn; nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của đất nước. Hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc sẽ tiếp thêm động lực, là cơ sở vững chắc để Việt Nam giữ vững và phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tích cực, chủ động trong hội nhập quốc tế, phát huy vai trò công tác đối ngoại trong tình hình mới./.

--------------------------------------

(1) Hội nghị diễn ra qua 4 năm, 8 tháng, 14 ngày, với 202 phiên họp công khai và 45 cuộc gặp riêng cấp cao giữa Việt Nam và Mỹ.
(2) Báo Nhân Dân, ngày 4-4-1968
(3) Báo Nhân Dân, ngày 9-5-1969
(4) Lê Duẩn: Thư vào Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, tr. 359
(5) Bộ Ngoại giao: Mặt trận ngoại giao với cuộc đàm phán Pa-ri, Nxb. Chính trị quốc gia, 2004, tr. 154
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 162
(7) Nguyễn Phú Trọng: “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 980, tháng 12-2021, tr. 16
(8), (9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 161, 110
(10) Hồ Chí Minh: Toàn tậpSđd, t. 8, tr. 555
(11), (12) Nguyễn Phú Trọng: “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại và mang đậm bản sắc dân tộc”, Tlđd, tr. 17, 18
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIIISđd, t. I, tr. 164