TCCS - Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin về dân chủ có giá trị khoa học, cách mạng và thực tiễn to lớn, là nền tảng tư tưởng và phương pháp luận cho công cuộc đổi mới nói chung, trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng ở Việt Nam. Những thành tựu của công cuộc đổi mới nói chung và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nói riêng ở Việt Nam là minh chứng thực tế cho tính đúng đắn trong quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin về dân chủ.

Đảng và Nhà nước ta gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân (Trong ảnh: Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng với cử tri Tổ dân phố số 8, phường Nguyễn Du tại Hội nghị lấy ý kiến nhận xét và tín nhiệm cử tri nơi cư trú đối với người ứng cử đại biểu Quốc hội khoá XV, nhiệm kỳ 2021- 2026 (tháng 3-2021)) _Ảnh: TTXVN

1. Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin (quan điểm của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I. Lê-nin) về dân chủ có những giá trị khoa học, cách mạng và thực tiễn to lớn. Đó là:

Thứ nhất, nhận thức về dân chủ trên lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tạo ra sự thay đổi có tính cách mạng trong nhận thức và thực hành dân chủ.

Dân chủ là sản phẩm phản ánh tính chất các mối quan hệ xã hội, trình độ và yêu cầu phát triển của xã hội, nhất là mối quan hệ, trình độ và yêu cầu phát triển kinh tế. Từ quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm về hình thái kinh tế - xã hội và mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng - kiến trúc thượng tầng, dân chủ được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin lý giải một cách khoa học, nhất là về cơ sở, nguồn gốc, bản chất và yếu tố ảnh hưởng của nó. Bởi vì, “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ  - tức những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị”(1). Và “hình thái sản xuất đều sản sinh ra những quan hệ pháp lý, những hình thức quản lý, v.v., riêng của nó”(2). Dân chủ - quyền làm chủ của con người trong xã hội - luôn dựa trên những cơ sở hiện thực của nó, nhất là cơ sở kinh tế. “Quyền không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”(3). “Không thể lấy bản thân những quan hệ pháp quyền cũng như những hình thái nhà nước, hay lấy cái gọi là sự phát triển chung của tinh thần của con người, để giải thích những quan hệ và hình thái đó, mà trái lại, phải thấy rằng những quan hệ và hình thái đó bắt nguồn từ những điều kiện sinh hoạt vật chất”(4). Hơn nữa, “bất cứ nền dân chủ nào, xét đến cùng, cũng đều phục vụ sản xuất và xét đến cùng, đều do các quan hệ sản xuất trong một xã hội nhất định quyết định”(5).

Bản chất của dân chủ là ở chỗ, nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước và giữ vai trò quyết định sự tồn tại của nhà nước. Dân chủ với tính cách là chế độ nhà nước được thể hiện ra như là “một trong những tính quy định, cụ thể là sự tự quy định của nhân dân”(6); Nhà nước dân chủ thực sự là nhà nước “ngày càng hướng tới cơ sở hiện thực của nó, tới con người hiện thực, nhân dân hiện thực, và được xác định là sự nghiệp của bản thân nhân dân”(7). Cụ thể hơn, dân chủ là: Bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật; tự do chính trị cho mọi công dân; quyết định theo đa số của mọi công dân; quyết định bằng cách biểu quyết, đó là thực chất của chế độ dân chủ hòa bình hoặc dân chủ thuần túy;...(8). Cùng với sự phát triển của lịch sử, dân chủ là một phạm trù lịch sử, phát triển từ thấp đến cao, “từ chuyên chế đến dân chủ tư sản; từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản; từ dân chủ vô sản đến không còn dân chủ nữa”(9).

Thứ hai, xác định giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử của dân chủ tư sản trên tinh thần khoa học và cách mạng.

Dân chủ tư sản có tính tiến bộ và cách mạng. Dân chủ tư sản có tính tiến bộ và cách mạng vì nó nhằm vào việc chống chế độ độc đoán, chuyên quyền, lỗi thời của xã hội phong kiến. Dân chủ tư sản làm cho đấu tranh giai cấp trở nên rộng rãi, công khai, có ý thức. “Chế độ cộng hòa tư sản, nghị viện, đầu phiếu phổ thông, - tất cả những cái đó, xét về phương diện phát triển của xã hội trên toàn thế giới, đều là một bước tiến rất lớn”(10). Việc tham gia vào chế độ dân chủ đại nghị là một biện pháp huấn luyện, giáo dục và tổ chức giai cấp vô sản thành một chính đảng độc lập, là một biện pháp đấu tranh của công nhân, người lao động.

Dân chủ tư sản mang tính nửa vời, không triệt để. Dân chủ tư sản bị che đậy bởi “chính quyền toàn dân”, “dân chủ thuần túy” và bản chất chuyên chính của kẻ bóc lột đối với quần chúng lao động; cản trở, bóp nghẹt sinh hoạt chính trị độc lập của quần chúng và sự tham gia trực tiếp của họ vào việc xây dựng nhà nước dân chủ thực sự. Dân chủ tư sản hoàn thành khi mang lại lợi ích căn bản cho giai cấp tư sản và làm cho cuộc đấu tranh vì dân chủ của quần chúng đi đến thoái trào; đồng thời, dẫn đến việc giai cấp tư sản thỏa hiệp với giai cấp phong kiến, sợ hãi và đàn áp các lực lượng dân chủ và cách mạng. Sự dao động, hèn nhát, phản bội, bất lực của giai cấp tư sản đã đi ngược lại mục tiêu ban đầu của cuộc đấu tranh vì dân chủ. Dân chủ đại nghị chỉ có tính chất ước lệ và sự hạn chế của nó gắn liền với chế độ tư bản chủ nghĩa, bởi dân chủ chỉ dành cho thiểu số bóc lột.

Dân chủ tư sản có ý nghĩa to lớn và là tiền đề cho cuộc đấu tranh vì dân chủ của giai cấp vô sản. Đấu tranh cho dân chủ trong điều kiện của nền dân chủ tư sản là tiền đề cho cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản. Cách mạng dân chủ càng được thực hiện đầy đủ bao nhiêu thì cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản càng diễn ra sớm, rộng lớn, rõ rệt và kiên quyết bấy nhiêu. “Nhưng chúng ta, những người theo chủ nghĩa Mác, chúng ta phải biết rằng giai cấp vô sản và nông dân không có và không thể có con đường nào khác dẫn tới tự do chân chính ngoài con đường tự do tư sản và tiến bộ tư sản”(11). Dân chủ tư sản không giúp giải thoát được ngay lập tức công nhân và người lao động khỏi cảnh bần cùng, nhưng sẽ đem lại cho công nhân vũ khí để đấu tranh chống lại cảnh bần cùng. Đấu tranh cho dân chủ dù ở mức độ và trình độ nào thì đều nằm trong mục tiêu chung của tiến trình cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp vô sản. Phải đưa vào trong phong trào công nhân tự phát những lý tưởng xã hội chủ nghĩa; những lý tưởng này phải đạt tới trình độ khoa học, gắn phong trào đó với cuộc đấu tranh chính trị có hệ thống cho dân chủ. Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản phải trên cơ sở thực hiện một cương lĩnh, một sách lược cách mạng về toàn bộ những yêu sách dân chủ. Dân chủ tư sản trở thành trường học dân chủ để giai cấp vô sản học tập, rèn luyện tinh thần, ý thức dân chủ và năng lực thực hành dân chủ. “Nhưng hoàn toàn không thể tưởng tượng được rằng giai cấp vô sản, với tư cách là một giai cấp lịch sử, có thể chiến thắng được giai cấp tư sản, mà lại chưa được giáo dục theo tinh thần dân chủ triệt để nhất và kiên quyết cách mạng nhất, để làm việc đó”(12).

Tuy nhiên, “Chúng ta ủng hộ chế độ cộng hòa dân chủ vì nó là hình thức nhà nước tốt nhất cho giai cấp vô sản dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, nhưng chúng ta không được quên rằng cảnh nô lệ làm thuê là số phận của nhân dân ngay cả trong nước cộng hòa tư sản dân chủ nhất”(13). Và do vậy, cần “Dựa vào chế độ dân chủ đã được thực hiện, đồng thời bóc trần tính chất không triệt để của cái chế độ dân chủ đó dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, chúng ta đòi phải lật đổ chủ nghĩa tư bản, tước đoạt giai cấp tư sản, coi đó là cơ sở cần thiết để xóa bỏ tình trạng bần cùng của quần chúng cũng như để thực hiện một cách đầy đủtoàn diện tất cả mọi cải cách dân chủ”(14).

Đấu tranh cho dân chủ, xét cho cùng, là con đường dẫn đến chủ nghĩa xã hội. Giữa hai cuộc đấu tranh cho dân chủ và cho chủ nghĩa xã hội có mối quan hệ biện chứng với nhau; thực hiện hoàn toàn và triệt để chế độ dân chủ là tiền đề để đạt đến mục đích cuối cùng là chủ nghĩa xã hội. “Giai cấp vô sản không thể giành được thắng lợi bằng cách nào khác hơn là thông qua chế độ dân chủ, nghĩa là bằng cách thực hiện chế độ dân chủ triệt để và đem những yêu sách dân chủ được đề ra một cách kiên quyết nhất mà gắn liền với từng giai đoạn đấu tranh của họ”(15). Đấu tranh vì dân chủ và chủ nghĩa xã hội là một tiến trình thống nhất và tất yếu. Giai đoạn đấu tranh vì dân chủ là sự chuẩn bị cho giai đoạn đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội; giai đoạn đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội là sự kế tục và hoàn tất giai đoạn đấu tranh vì dân chủ. “Thắng lợi hoàn toàn của cách mạng hiện tại sẽ đánh dấu bước kết thúc của cách mạng dân chủ và mở đầu một cuộc đấu tranh kiên quyết cho cách mạng xã hội chủ nghĩa... Cách mạng dân chủ càng được thực hiện đầy đủ bao nhiêu thì cuộc đấu tranh mới ấy càng diễn ra sớm, rộng lớn, rõ rệt và kiên quyết bấy nhiêu”(16). Đấu tranh vì dân chủ tìm thấy khả năng và điều kiện tốt nhất ở cuộc đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội; đấu tranh vì chủ nghĩa xã hội tìm thấy thuộc tính bản chất và động lực phát triển của nó ở cuộc đấu tranh vì dân chủ. Vì thế, “chủ nghĩa xã hội thắng lợi nhất thiết phải thực hiện chế độ dân chủ hoàn toàn”(17). Và “Không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện được theo hai ý nghĩa sau đây: (1) giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ; (2) chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu không thực hiện được đầy đủ chế độ dân chủ”(18).

Thứ ba, hình thành quan điểm về dân chủ nhằm giải quyết những nhiệm vụ lịch sử của cách mạng vô sản và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Xây dựng nền dân chủ là một mục tiêu, nhiệm vụ cơ bản của cách mạng vô sản. “Như chúng ta đã thấy trên kia, bước thứ nhất trong cuộc cách mạng công nhân là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị, là giành lấy dân chủ”(19). Sau khi giành được chính quyền, giai cấp vô sản thông qua nhà nước của mình để từng bước tổ chức cho toàn dân tham gia quản lý nhà nước một cách dân chủ. Những biện pháp chủ yếu nhất mà chế độ dân chủ của giai cấp vô sản sử dụng vào việc cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới thể hiện ở những công việc như: hạn chế quyền tư hữu; dần dần tước đoạt ruộng đất, xí nghiệp, đường sắt, tàu thủy của địa chủ và tư sản, thực hiện cạnh tranh trong công nghiệp nhà nước; tịch thu tài sản của giai cấp bóc lột; tổ chức lao động trong giai cấp vô sản; thủ tiêu sự cạnh tranh giữa công nhân với nhau, trả tiền công bình đẳng cho người lao động; tất cả mọi người trong xã hội đều có nghĩa vụ lao động như nhau; tiến hành những cải tạo kinh tế và xã hội nhằm không ngừng phát triển sản xuất và nâng cao đời sống của nhân dân lao động. Không đặc quyền, không áp chế, không bất công,... là những nguyên tắc của nền dân chủ vô sản.

Lãnh đạo Đảng ủy phường Linh Tây, quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh tiếp xúc, đối thoại với nhân dân để giải quyết các kiến nghị, phản ánh của nhân dân trên địa bàn phường _Ảnh: http://thuduc.hochiminhcity.gov.vn

Xây dựng nhà nước dân chủ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Khi giai cấp vô sản trở thành giai cấp làm chủ xã hội cũng là lúc bắt đầu xây dựng một kiểu nhà nước mới - nhà nước được tổ chức và hoạt động theo các nguyên tắc dân chủ, phương pháp dân chủ và phấn đấu vì mục tiêu dân chủ.

Dân chủ phải được bảo đảm bằng hiến pháp và toàn bộ hệ thống pháp luật. “Toàn bộ quyền lực tối cao trong nước phải thuộc về các đại biểu của nhân dân, do nhân dân bầu ra, có thể bị nhân dân bãi chức bất cứ lúc nào”(20). Chỉ có thể gọi một cuộc bầu cử là dân chủ khi nào nó là phổ thông, trực tiếp và bình đẳng. Chỉ có những ủy ban nào do toàn dân bầu ra trên cơ sở quyền phổ thông đầu phiếu mới là những ủy ban dân chủ. Toàn bộ công việc quản lý nhà nước từ dưới lên đều do bản thân quần chúng tổ chức, quần chúng thực sự tham gia quản lý, chứ không dừng lại ở cơ quan đại diện và đại biểu đại diện. Quần chúng cần nắm vững nghệ thuật quản lý nhà nước và điều khiển toàn bộ chính quyền nhà nước. Đồng thời, phải làm thế nào để quyền bãi miễn được thực hiện đầy đủ và nghiêm túc; thực hiện quyền bãi miễn tức là thực hiện quyền dân chủ; từ chối không thực hiện quyền bãi miễn, trì hoãn thực hiện quyền đó, hạn chế quyền đó khi cần thiết đều là phản lại dân chủ. Phải bảo đảm dân chủ trong quá trình xét xử; sự tham gia của các đại biểu nhân dân trong việc xét xử là một nguyên tắc dân chủ; việc bầu cử các hội thẩm không đặt trước một điều kiện nào, không có bất cứ hạn chế nào đối với quyền bầu cử, như hạn chế về trình độ học vấn, thời gian cư trú,...

Chống quan liêu, hoàn toàn xây dựng chế độ dân chủ của nhân dân. Xây dựng chế độ dân chủ đi đôi với việc chống chế độ quan liêu từ những vấn đề có tính nguyên tắc, từ tổ chức bộ máy của nhà nước và các tổ chức chính trị, xã hội đến quan điểm, lập trường, thái độ, phong cách của cán bộ, viên chức. Quan liêu là trái, là đối lập với dân chủ. “Chế độ dân chủ vô sản là chế độ sẽ thi hành ngay lập tức những biện pháp để chặt tận gốc chế độ quan liêu và sẽ có thể thi hành những biện pháp ấy tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá hủy chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn xây dựng một chế độ dân chủ cho nhân dân”(21). Các biện pháp chủ yếu để chống chế độ quan liêu là: những nhân viên của nhà nước vô sản không chỉ được bầu ra mà còn có thể bị bãi miễn bất cứ lúc nào; lương của họ không cao hơn lương của công nhân; thi hành ngay những biện pháp khiến tất cả mọi người đều làm chức năng kiểm sát và giám thị, khiến tất cả mọi người đều tạm thời biến thành “quan liêu” và, do đó, khiến không một ai có thể trở thành kẻ quan liêu được.

Thu hút sự tham gia thực sự của quần chúng vào xây dựng chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở; dựa vào sáng kiến của quần chúng để xây dựng và phát triển dân chủ. Không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ là đủ; không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho “những người đại diện” nhân dân trong những cơ quan đại biểu là đủ. “Cần phải xây dựng ngay chế độ dân chủ, bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước”(22). “Quần chúng càng chủ động, càng có nhiều ý kiến, càng mạnh dạn và càng có tinh thần sáng tạo khi tiến hành công việc đó thì lại càng tốt”(23).

2. Quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin về dân chủ có giá trị nền tảng và là chỉ dẫn mang tính nguyên tắc đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Kế thừa, tuân thủ và vận dụng sáng tạo các quan điểm có tính nguyên tắc về sự kết hợp tất yếu và hữu cơ giữa dân chủ và chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định dân chủ là quy luật hình thành, phát triển của công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều đó thể hiện sự kiên định, tầm nhìn xa, trông rộng và quyết tâm chính trị ở tầm chiến lược của Đảng trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới.

1- Dân chủ (dân chủ xã hội chủ nghĩa) được xác định là bản chất của chế độ “mọi quyền hành đều thuộc về nhân dân”.

Chế độ ta là chế độ dân chủ, mọi quyền hành đều thuộc về nhân dân, do vậy, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều thể hiện lợi ích và nguyện vọng của nhân dân. Đảng và Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, phục vụ nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân. Mọi cán bộ, công chức đều phải tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, có trách nhiệm hoàn thành tốt chức trách và nhiệm vụ được nhân dân giao phó. Pháp chế xã hội chủ nghĩa cần được tăng cường, trách nhiệm công dân cần được đề cao, cơ chế và biện pháp kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước cần được hoàn thiện. Mọi hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân và lợi dụng dân chủ làm tổn hại lợi ích của nhân dân và Tổ quốc đều phải bị phê phán và nghiêm trị. Tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thiếu trách nhiệm trước nhân dân, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân đều phải bị ngăn ngừa và trừng trị thích đáng.

2- Dân chủ với bài học “lấy dân làm gốc” được xác định là cơ sở, xuất phát điểm cho công cuộc đổi mới.

Chế độ ta là chế độ dân chủ, dân là chủ, dân làm chủ, do vậy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định dân chủ là vấn đề quan trọng và cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ đổi mới, bài học “lấy dân làm gốc” được xác định là cơ sở, xuất phát điểm cho công cuộc đổi mới. Dân chủ trở thành “chiếc chìa khóa” giải quyết những vấn đề của công cuộc đổi mới. Chẳng hạn, từ xác định phương hướng cơ bản của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đến xác định cơ chế cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”; từ thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đến thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Từ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân thông qua các cơ quan dân cử và các tổ chức chính trị - xã hội đến thực hiện dân chủ ở cơ sở (với các hình thức nhân dân tự quản, bằng các quy ước, hương ước ở cơ sở trong khuôn khổ pháp luật,...). Từ cơ chế dân chủ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” đến phát triển thành cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”.

Các đại biểu biểu quyết số lượng, thành phần, cơ cấu người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XV và đại biểu Hội đồng nhân dân tỉnh Ninh Thuận khóa XI, nhiệm kỳ 2021 - 2026 tại hội nghị hiệp thương lần thứ hai do Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam tỉnh Ninh Thuận tổ chức _Ảnh: Tư liệu

3- Dân chủ được xác định là mục tiêu của công cuộc đổi mới.

Dân chủ ngày càng được xác định là một trong những đặc trưng cơ bản và phương hướng chủ yếu của công cuộc đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Dân chủ, do tính chất và tầm quan trọng của nó, ngày càng có vị trí ưu tiên hơn trong các nội dung của mục tiêu đổi mới đất nước. Từ xác định dân chủ là một trong những nội dung của mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta đã đi đến xác định dân chủ là một trong những nội dung của mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

4- Dân chủ được xác định là động lực của công cuộc đổi mới.

Dân chủ tạo ra yêu cầu, môi trường và điều kiện thúc đẩy đổi mới kinh tế. Chế độ ta là chế độ dân chủ, mọi lực lượng đều ở nhân dân, do vậy, dân chủ tạo điều kiện phát huy sáng kiến, khơi dậy những nguồn lực vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, bảo đảm quyền tự chủ sản xuất, kinh doanh của người dân và doanh nghiệp; thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý; phát triển bình đẳng các thành phần kinh tế; phát triển bền vững kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Dân chủ tạo ra yêu cầu, môi trường và điều kiện thúc đẩy đổi mới chính trị. Dân chủ thúc đẩy đổi mới, chỉnh đốn Đảng, đổi mới Nhà nước theo hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đổi mới hệ thống chính trị theo hướng trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng, quản lý của Nhà nước, năng lực kiểm tra, giám sát và phản biện xã hội của các tổ chức chính trị - xã hội; thúc đẩy những tiến bộ trong công tác và chính sách cán bộ, quy trình quy hoạch, lựa chọn, bổ nhiệm và miễn nhiệm cán bộ, công chức; thúc đẩy việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cấp ủy, chính quyền và hệ thống chính trị trước nhân dân. Dân chủ góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ; làm tăng ý thức, tình cảm và quyết tâm chính trị của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Dân chủ trở thành nhân tố bảo đảm tăng cường đoàn kết, tập hợp nhân dân trong sự nghiệp đổi mới. Dân chủ góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thu hút sự tham gia rộng rãi, có hiệu quả của các tầng lớp nhân dân vào việc xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị, xây dựng và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đồng thời, góp phần tăng cường sự tham gia của nhân dân vào các quá trình kiểm tra, giám sát và kiểm soát đối với hoạt động của chính quyền; mở rộng các quyền và trách nhiệm công dân; thúc đẩy sự hiểu biết, chia sẻ và đồng thuận giữa các tầng lớp xã hội; nâng cao tiềm lực, uy tín quốc gia, tạo sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trên huyện đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp _Ảnh TTXVN

3. Những thành tựu trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là minh chứng trực tiếp và sinh động của việc kế thừa, tuân thủ và vận dụng sáng tạo quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lê-nin về dân chủ trong thời kỳ đổi mới:

Một là, hệ thống đường lối, chính sách, thể chế và cơ chế dân chủ ngày càng được hoàn thiện. Đường lối, chính sách, thể chế, cơ chế dân chủ ngày càng được phát triển và hoàn thiện, tạo cơ sở chính trị và nền tảng pháp lý vững chắc cho quá trình thực hành dân chủ. Thực hiện dân chủ ngày càng trở thành quá trình xác định và thực hiện các cơ chế, thể chế về các quyền và lợi ích của Đảng, Nhà nước và của nhân dân. Trong chủ trương và đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nội dung và chương trình hoạt động của các tổ chức chính trị - xã hội, vấn đề xây dựng cơ chế, thể chế dân chủ ngày càng được chú trọng. Thể chế, cơ chế dân chủ quy định tổ chức và hoạt động của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội  - nghề nghiệp đã trở nên hiện hữu và phát huy tác dụng. Thể chế, quy chế quy định quyền hạn và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong các mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, trong kiểm soát quyền lực nhà nước... từng bước được hoàn thiện, làm cho dân chủ ngày càng được lượng hóa. Đời sống xã hội được tổ chức và vận hành trên cơ sở các thể chế dân chủ với tính ổn định cao; tính chủ quan, duy ý chí của các tổ chức và người lãnh đạo, quản lý được giảm thiểu đáng kể.

Hai là, dân chủ trong Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị từng bước được thực hành có hiệu quả. Các cấp ủy và đảng viên ngày càng nhận thức đúng đắn, thực hành đầy đủ nguyên tắc tập trung dân chủ; Quốc hội thực sự là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất; chính quyền các cấp ngày càng dân chủ, liêm chính, thực hiện chức năng kiến tạo, phục vụ phát triển; các cơ quan tư pháp xứng đáng là cơ quan bảo vệ pháp luật, bảo vệ công lý;... Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ngày càng thực hiện đầy đủ chức năng giám sát, phản biện xã hội. Năng lực nhận thức và thực hành dân chủ của cán bộ, đảng viên và nhân dân từng bước được nâng cao. Phương pháp và phong cách làm việc, ứng xử dân chủ của cán bộ, đảng viên và nhân dân có sự chuyển biến tích cực và ổn định. Dân chủ đã và đang trở thành phương pháp làm việc, phong cách giao tiếp và thái độ ứng xử của cán bộ, đảng viên, công chức và nhân dân, chứ không còn dừng lại ở quan điểm và định hướng chung.

Ba là, ý thức thực hành dân chủ trong xã hội ngày càng được nâng cao. Ý thức xã hội về vị thế, quyền hạn và trách nhiệm của cá nhân với cộng đồng, cũng như trong mối tương quan với các tổ chức, với các thiết chế dân chủ ngày càng được nâng cao; hình thành nhiều giá trị mới trong văn hóa dân chủ, trong kỹ năng giao tiếp, ứng xử dân chủ. Tính tích cực chính trị của công dân được tăng cường, không khí dân chủ trở nên rộng mở và sự quan tâm đến chính trị, tham gia quản lý nhà nước của nhân dân ngày càng rộng rãi. Nhân dân ý thức rõ ràng và cụ thể hơn về quyền và trách nhiệm công dân của mình trước pháp luật, thực hiện đầy đủ hơn quyền và trách nhiệm của mình trong sản xuất và đời sống. Các quyền dân chủ của nhân dân - từ tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất, kinh doanh đến hưởng thụ kết quả lao động; từ tự do làm ăn đến tự do ngôn luận được hiện thực hóa. Các quyền đề cử, ứng cử và lựa chọn của nhân dân trong các cuộc bầu cử ngày càng đầy đủ và hoàn thiện. Dân chủ không còn là các cuộc vận động, các phong trào, mà đã và đang trở thành thể chế dân chủ pháp quyền.

Bốn là, nội dung, hình thức, tính chất, phương pháp và công cụ thực hành dân chủ ngày càng sâu sắc và đa dạng, phong phú. Về nội dung, quá trình thực hiện dân chủ ngày càng được mở rộng và phát triển đến các lĩnh vực, các ngành, các cấp; cụ thể và chi tiết về tiêu chí và chuẩn mực. Về hình thức, dân chủ gián tiếp và dân chủ trực tiếp từng bước được phát triển đầy đủ, được xác định bằng những quy tắc, quy định và quy trình cụ thể; cùng với việc hoàn thiện các hình thức dân chủ đại diện là việc xúc tiến mạnh mẽ các hình thức dân chủ trực tiếp. Về tính chất, quá trình thực hiện dân chủ ngày càng toàn diện và triệt để, thiết thực và hiệu quả.

Năm là, dân chủ ở cơ sở không còn dừng lại ở những nguyên tắc chung, trừu tượng, mà được cụ thể hóa ở từng cấp, ngành, địa phương, đơn vị. Dân chủ ngày càng thoát ra khỏi tính hình thức để trở nên thực chất, thiết thực hơn và có kết quả rõ ràng. Dân chủ ở cơ sở đang là “chiếc chìa khóa vạn năng” để giải quyết những khó khăn, phức tạp trong quá trình đổi mới.

Để khắc phục những hạn chế, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong thời kỳ đổi mới, chúng ta cần tiếp tục kế thừa, tuân thủ và vận dụng sáng tạo quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác  - Lê-nin về dân chủ; nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; đồng thời, chọn lọc, kế thừa những giá trị thực sự, phù hợp của văn minh nhân loại về dân chủ. Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo ra những yêu cầu và điều kiện mới cho việc phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; ngăn ngừa, phát hiện và xử lý kịp thời, nghiêm minh những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Gắn thực hiện dân chủ với ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế, nâng cao dân trí và cải thiện đời sống nhân dân; thực hiện dân chủ đi đôi với kỷ cương, quyền hạn đi đôi với trách nhiệm. Dân chủ và thực hiện dân chủ phải xuất phát từ những yêu cầu nội tại của đất nước, hướng vào sự ổn định và phát triển đất nước một cách bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xác định đúng những nguyên tắc, phương châm và thực hiện đồng bộ các giải pháp về nhận thức, thể chế và nguồn lực cho việc xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, gắn với đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.

---------------------------------

(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t. 13, tr. 14 - 15
(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 861
(3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 19, tr. 36
(4) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 13, tr. 14
(5) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1977, t. 42, tr. 345
(6), (7) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t.  1, tr.  349
(8) Xem: V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 39, tr. 515 - 517
(9) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 33, tr. 206
(10) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 39, tr. 94
(11) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 130
(12) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 27, tr. 79
(13) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 33, tr. 25
(14), (15) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 27, tr. 79, 78
(16) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 11, tr. 154 - 155
(17) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 27, tr. 323
(18) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 30, tr. 167
(19) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 4, tr. 626
(20) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 32, tr. 180
(21) V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 33, tr. 135
(22), (23)  V.I. Lê-nin: Toàn tập, Sđd, t. 31, tr. 337